VÔ MINH
VÔ MINH
Vô minh là gì ?
Ngày nay chúng ta đều biết rằng mỗi loài kinh nghiệm một đối tượng thành khác nhau vì các giác quan và hệ thần kinh được cấu tạo theo kiểu khác nhau. Hơn thế nữa, mỗi cá nhân trong loài người lại cảm nghiệm theo một lối khác nhau, tùy theo những kỷ niệm đã qua và những xúc cảm riêng tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ, nghi ngờ, sợ sệt… Đây là nguyên nhân tạo ra sự không khách quan, tạo ra vô vàn khác biệt chủ quan trong cảm nhận đời sống của mỗi người. Nhưng đây chỉ mới là những nguyên nhân thô bên ngoài để tạo thành thế giới riêng của mỗi người mà Phật giáo gọi là ‘như mộng, như huyễn’. Như mộng như huyễn vì không có thật mà cho là có thật.
Nguyên nhân sâu xa, căn bản là sự sai lầm, vọng nhận rằng sự vật, chúng sanh, thế giới là có hiện hữu nội tại, nói theo thuật ngữ Phật giáo là ‘có tự tánh’. Sự vật do nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện (duyên) sanh ra; nó không thể tự giữ mãi hình dáng và bản chất của Nó. Nó là duyên sanh, không có hiện hữu nội tại, không có tự tánh. Vì vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc cho nên là tánh Không.
Chính sự mê lầm căn bản cho là có tự tánh này đã sanh ra phân biệt và chấp ta người, của ta của người, chủ thể và đối tượng, tôi và thế giới, từ đó đủ mọi thứ phiền não sanh ra, đưa con người vào sanh tử.
‘Điên đảo lầm lộn’ chính là tưởng rằng mọi sự có tự tánh. Và trong mọi sự , cái có vẻ gần gũi chúng ta nhất là thân tâm này. Thân tâm do nghiệp sanh ra, nghiệp từ vô minh chấp có tự tánh tích tập dần dần mà thành. Nhưng cũng chính từ thân tâm do nghiệp sanh này, từ cơ sở cho hiện hữu chúng ta ở cõi sanh tử này, mà chúng ta nhìn ra tánh Không, cũng là tánh Viên Giác, để giải thoát.
Xoay lại quán sát cái khởi sanh ra thế giới, cái thân tâm này, thì thấy nó không thực có, nó là duyên sanh. Nó duyên sanh từ ‘vọng nhận bốn đại làm thân tướng của mình’. Thân tướng do vọng nhận ấy lại duyên sanh với một tâm tướng cũng vọng nhận, duyên sanh từ ‘những bóng ảnh duyên theo sáu trần’ mà có. Thân tâm chỉ là những duyên sanh không cùng của những điều ngộ nhận.
Do cái thấy chân thật, cái chánh kiến mà người ta nhận ra thân tâm này là hoa đốm và mặt trăng thứ hai, đồng thời nhận ra cái nền tảng bản khởi cho các vọng nhận, vọng chấp này. Khi thấy thân tâm là hoa đốm thì người ta đồng thời thấy ra hư không từ đó có ra hoa đốm. Khi thấy thân tâm là mặt trăng thứ hai thì người ta thấy ra mặt trăng thứ nhất là nhân địa bản khởi cho mặt trăng thứ hai. Khi thấy như huyễn thì người ta thấy được tánh Không hay tánh Viên Giác và ngược lại, khi thấy trực tiếp tánh Không hay tánh Viên Giác thì người ta thấy ra thân tâm và thế giới này là như huyễn.
Tất cả chúng ra từ xưa nay vẫn hằng ở trong tánh Viên Giác “tịch diệt, bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương” bao la ấy mà lại nhận mớ hoa đốm cỏn con là thân tâm và thế giới để uổng chịu luân hồi. Biết hoa đốm chưa từng có sanh, biết mặt trăng thứ hai chưa từng có người nào thấy, ngay đó chứng Vô sanh. Hư không vốn Vô sanh, đó là tánh Viên Giác, đó là tâm vốn sẵn của chúng ta.
Thế nên, hễ có tướng thì biết đó là bệnh. Có ta, có người, có chúng sanh, có thế giới thì đó là vọng nhận, vọng thấy điên đảo. Cái điên đảo này chưa từng có gốc gác, cái điên đảo này là vô sanh.
Kinh Kim Cương nói: “phàm hễ có tướng đều là hư vọng”. Tất cả những cái có đều là vọng có, sắc thọ tưởng hành thức đều là hoa đốm vọng hiện. Chúng là vô sanh.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “A Nan, xét kỹ thì sáu nẻo luân hồi đều là tướng hữu vi chìm đắm, do vọng tưởng mà thọ sanh, do vọng tưởng mà theo nghiệp. Trong Bản Tâm Diệu Giác vô tác thì cả thảy đều như hoa đốm giữa hư không, không chỗ nào dính bám, chỉ là hư vọng, không gốc rễ mối manh… Vậy thì mười phương cõi nước nhiều như vi trần đều do vọng tưởng điên đảo kiến lập. Phải biết hư không sanh trong tâm ông cũng như điểm mây sanh trong bầu trời, huống chi các thế giới ở trong hư không ấy! Một người trong các ông khởi sự về nguồn thì mười phương hư không ấy thảy đều tiêu mất”.
Rõ ràng, bệnh của chúng ta là ham thấy bóng quá nên không còn nhận ra gương, ham thấy hoa đốm quá nên không thể thấy hư không. ‘Do vọng chấp cho nên chẳng những không biết tự tánh hư không mà còn lầm cho là hoa đốm thật có sanh’.
Khi thấy ra hoa đốm, thấy ra bóng thì mới biết rằng từ xưa nay mình vẫn thường trụ như hư không, vẫn sáng ngời như tấm gương không hề ô nhiễm; xưa nay mình vẫn là tâm Viên Giác thường định và quang minh.
Tất cả vốn là một mà thấy ra sai khác, đó là huyễn, đó là vô minh. Tất cả vốn là một mà thấy ra sai khác, đó là thấy hoa đốm. Rồi nơi cái vọng thấy có sai khác mà không biết là huyễn, là hoa đốm ấy, bèn có đủ thứ hành động, tạo thành đủ thứ nghiệp mà trôi lăn trong sanh tử theo dòng nhân quả.
Hư không chưa từng có hoa đốm mà thấy ra có hoa đốm, mặt trăng vẫn một mà thấy ra cái thứ hai, cái vọng hiện ra ấy là vô minh. Cái vọng hiện đó không do bởi đâu, không căn cứ vào đâu, không nương tựa vào đâu, không từng có tự tánh. Ngay đây mà thấu suốt được ‘cái vô minh không có thực thể’ thì ba đời mười phương, tất cả thời gian không gian trọn liền tiêu hoại, nhất thời giải thoát, chứng ngay Vô sanh pháp nhẫn.
Tâm trong mộng phóng chiếu ra cảnh như thế nào thì tâm khi thức phóng chiếu ra cảnh cũng như thế ấy. Không có ánh sáng phóng chiếu của tâm thì không có cảnh nào hết, cảnh mộng cũng như cảnh thức. Phóng chiếu ra những cái gì, đó là do nghiệp riêng và nghiệp chung. Nhưng sở dĩ cho đó là thực vì không biết những cảnh ấy là vô tự tánh, rồi gia tăng thêm sức nặng cho chúng bằng đủ loại phiền não. Khi đạt đến bản tánh của tâm, nguồn sáng của mọi phóng chiếu, thì mới biết rằng đó chỉ là giấc mộng không thực, chưa từng có thực.
Ngay khi đang thấy cảnh, dầu thức hay mộng mà biết những phóng chiếu ấy chính là ánh sáng căn bản của tâm (quang minh tạng), bèn biết được tâm Viên Giác quang minh của mình, khi ấy vô minh phân biệt tạo thành giấc mộng sanh tử biến mất.
Khi khổ đau vì nhìn thấy hoa đốm, bèn thiền định thiền quán nhìn kỹ lại: hoa đốm biến mất, bởi vì tâm vốn không có vật gì. Biến mất mà chẳng thể nói là có chỗ diệt mất, vì chưa từng sanh ra vậy. Ngay sự thật ‘chưa từng có chỗ sanh ra’ mà rõ suốt ắt là nghiệp thức bao đời tan biến như hoa đốm giữa hư không.
Hết thảy chúng ta từ vô thủy đến nay vẫn ở trong cái thể vô sanh ấy, chưa từng chệch ra ngoài một mảy lông, cọng tóc. Hết thảy chúng ta xưa nay thường trụ trong cái chỗ ‘chưa từng có chỗ sanh ra’, chưa từng có chút cách hở cho một vọng tưởng hoa đốm vọng hiện. Thế mới biết là hư không chưa từng có hoa đốm, vô minh không hề có thực thể, làm thế nào để nói chuyện hoa đốm sanh hay chẳng sanh, diệt hay chẳng diệt ư ?