Trường phái hội họa trên thế giới, có bao nhiêu trường phái?
Trường phái hội họa trên thế giới, có bao nhiêu trường phái?
Khi tìm hiểu về mỹ thuật, nhiều người có chung những câu hỏi: “Trường phái hội họa là gì ?” , “có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa ?” , ” trường phái nào lớn nhất ?” và khi tìm hiểu thêm nữa thì ai cũng lại muốn biết thêm ” họa sỹ tiêu biểu nào đứng đầu một trường phái ?” , ” tác phẩm tiêu biểu ?”…
Sau đây là danh sách các trường phái cơ bản và tiêu biểu để bạn đọc được biết:
Danh sách 17 trường phái hội họa tồn tại trên thế giới:
# 1 Trường phái Tân cổ điển – NeoClassicism (cuốiTK XVIII – đầu TK XIX)
# 2 Trường phái lãng mạn – Romanticism (TK XIX)
# 3 Trường phái hiện thực – reality (1849 – 1874)
# 4 Trường phái ấn tượng – Impressionism (1874- 1886)
# 5 Trường phái hậu ấn tượng Post Impressionism (1886- 1910)
# 6 Trường phái Dã thú – Fauvism (1905-1909)
# 7 Trường phái biểu hiện – Expressionism (1906-1919)
Tranh của danh họa Bazille
Trường phái hội họa là gì ?
Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật và phương pháp thể hiện.
Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa?
Các trường phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trường phái xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính đại chúng – được nhiều người biết đến hay không mà thôi.
Danh Họa Van Gohg của Hà Lan
Các trường phái hội họa Châu Âu
Nhắc đến các trường phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật ngữ : “Trừu tượng” “Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là các trường phái lớn (bắt nguồn từ Châu Âu) có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới.
* Ấn tượng
* Baroc
* Cấu trúc
* Chấm họa
* Dã thú
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại
* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng
…
Như đã nêu, các trường phái trên là những trường phái nổi bật nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trường phái mỹ thuật trên thế giới. Các trường phái hội họa phương Tây đều có tính lịch sử, một trường phái ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước đó và đến lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển.
# 1 Trường phái Tân cổ điển – NeoClassicism (cuốiTK XVIII – đầu TK XIX)
# 2 Trường phái lãng mạn – Romanticism (TK XIX)
# 3 Trường phái hiện thực – reality (1849 – 1874)
# 4 Trường phái ấn tượng – Impressionism (1874- 1886)
# 5 Trường phái hậu ấn tượng Post Impressionism (1886- 1910)
Hay có thể là Trường phái Tượng Trưng (Symbolism) do họa sĩ Bernard, Paul Gauguin đã sáng lập năm 1888 (Trường phái này có danh họa người Pháp nổi tiếng là Paul Gauguin)
# 6 Trường phái Dã thú – Fauvism (1905-1909)
# 7 Trường phái biểu hiện – Expressionism (1906-1919)
# 8 Trường phái lập thể – Cubism (1909-1926)
# 9 Trường phái tương lai – Futurism (1909-1918)
# 10 Trường phái Dada (Dadaism) (1916-1922)
# 11Trường phái siêu thực – Surrealism (1924-1938)
( Trường phái này có danh họa nổi tiếng là Picasso: Họa sĩ người Tây ban Nha (1881 – 1973)/ Trường phái và phong cách: Chủ nghĩa lập thể, Biểu tượng, Chủ nghĩa siêu thực. Cubism, Symbolism, Surrealism)
# 12 Trường phái trừu tượng – Abstract (những năm 1940)
# 13 Trường phái Kinetic Art (1950′s-1960′s)
# 14 Trường phái Pop Art (1961-1968)
# 15 Trường phái Op Art (1964-1967)
# 16 Trường phái Minimalism (1966-1970)
# 17 Trường phái nghệ thuật nhận thức- Conceptual Art (1960′s and 70′s)
Để chi tiết hơn và hình dung đầy đủ các danh họa đại diện cho trường phái đó, hay khi xem tranh trong các bảo tàng đâu đó, bạn cũng có thể tự tin dễ dàng nhận định riêng hay biết được họa sĩ đó, bức tranh đó theo trường phái nào? ảnh hưởng của danh họa tiền nhân là ai?:
- Mỹ thuật phục hưng (hay mĩ thuật Phục Hưng Italy)
– Ở châu Âu thế kỉ XI, những thành thị được h́ình thành đă phá vỡ các lănh địa phong kiến, từ đó xuất hiện tầng lớp thị dân giàu có , đây là tiền thân của giai cấp tư sản. Tại Ý, nhiều thành thị trung tâm ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, …nhu cầu đời sống tinh thần được nâng cao, giai cấp tư sản muốn có một nền văn hoá chống lại giai cấp phong kiến, đó là nguyên nhân sự ra đời của văn hoá Phục hưng ở Ý, sau lan sang một số nước ở châu Âu như: Pháp, Đức…
Phong trào mĩ thuật Phục hưng ở Ý được khởi đầu vào cuối thế kỉ XIII bởi hai hoạ sĩ Xi-ma-bu-o và Gi-ốt-tụ, phong trào ra đời nhằm khôi phục và làm hưng thịnh lại nền văn hoá cổ đại Hi-Lạp, La-Mã mà thời Trung cổ đă huỷ hoại; đưa cái đẹp phục vụ cuộc sống con người, đồng thời nâng cao hơn trong hoàn cảnh mới để đạt tới sự mẫu mực, hoàn chỉnh.
_ Sang thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XV, phong trào mỹ thuật Phục hưng ở I-ta-li-a phát triển rực rỡ trên cơ sở những phát minh khoa học: t́ìm ra luật viễn cận, chất liệu sơn dầu …Các hoạ sĩ thời Phục hưng thường lấy đề tài tôn giáo để thể hiện cái đẹp, để diễn tả cuộc sống, diễn tả con người, họ không vẽ theo công thức g̣ò bó như nghệ thuật Trung cổ mà học hỏi cái đẹp từ thời Hy Lạp, La Mã, từ thiên nhiên. Các hoạ sĩ đưa không gian thấu thị vào tranh và áp dụng những luật với khối theo sáng tối, nhờ đó con người và thiên nhiên được diễn tả rất sâu về khối, tình cảm, y phục và bối cảnh, các qui luật về bố cục, màu sắc không gian, tỉ lệ, ánh sáng đến cách diễn tả đều đạt tới sự hoàn hảo. Mĩ thuật Phục hưng I-ta-li-a đã sinh ra nhiều hoạ sĩ nổi tiếng có những cống hiến to lớn cho nền mĩ thuật thế giới, trong đó có ba hoạ sĩ tiêu biểu như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael; Thời kỳ Phục Hưng kéo dài từ năm 1400 đến 1600, Trung tâm ở Florence.
Bức ” Nàng Mona” của danh họa Leonardo da Vinci
- Trường phái ấn tượng
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.
Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ có thể nhìn thấy được, sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.
Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley
Bức họa ” đánh bài” của danh họa Paul Cezanne
- Trường phái hậu ấn tượng
Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20.
Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh với ba phong cách hiện thực đã làm phong phú và đa dạng một thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp dẫn của của nghệ thuật. Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ 20.
bức họa của Vincent Van Gogh
- Trường phái dã thú
Để chống chọi với trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng mà quên đường nét của cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.
Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy….
Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi loạn màu sắc”, Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏ son”.
Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủ trương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sử dụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả.
bức họa của Henri Matisse
- Trường phái biểu hiện
Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).
Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.
Thời kì này có danh họa tiêu biểu Edvard Munch.
bức tiếng thét của Edvard Munch
- Trường phái lập thể
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.
Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.
Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso.
Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.
Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dã thú.
Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba…
Bức ” giấc mơ” của Pablo Picasso
bức ” ba nghệ sĩ” của Picasso
- Trường phái tương lai
Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sự bất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy.
Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác động” và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới.
danh họa Umberto Boccioni_tranh trường phái tương lai
- Trường phái Dada (Dadaism)
Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ.
Ða đa là một phong trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế giới lần thứ nhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng phản kháng là hai điểm nổi bật nhất.
Những họa sĩ tham gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso, Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố (7/1920) ở Hanover cho rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”.
- Trường phái siêu thực
Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.
Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái không thực.
Tác phẩm của họa sĩ Carl Jung trường phái tranh siêu thực
Họa sĩ Carl Jung (1875-1961) cũng là nhà tâm lí học phân tích (người Thuỵ Sĩ) ông là học trò của họa sĩ Sigmund Freud (1856-1939), người sáng lập phân tâm học lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ vô thức.
họa sĩ Sigmund Freud thuộc trường phái siêu thực (Surrealism)
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái hội hoạ siêu thực
Có rất nhiều hoạ sĩ Siêu thực được ghi danh vào lịch sử mỹ thuật thế giới
như : Moreau, Picasso, Duchamp, Klee, Max Erst, Masson, Chi-ri-co, Dali,
Sagall…
tranh của danh họa Salvador Dali (ông cũng là người Tây Ban Nha)
danh họa Salvador Dali
- Trường phái ấn tượng trừu tượng
Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc.
Họa sĩ Jackson Pollock và tác phẩm thuộc trường phái ấn tượng trừu tượng
Những họa sĩ siêu thực này hoàn toàn vẽ không có chủ đích nhằm tiết lộ sự thực ẩn giấu bên trong suy nghĩ của họ. Thông thường, thay vì hình dung và vẽ, họ để đôi tay mình di chuyển một cách tự nhiên và thành phẩm là những bức tranh giống nhau đầy các nét vẽ nguệch ngoạc.
- Trường phái Kinetic Art
Trường phái nghệ thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc.
- Trường phái Pop Art
Pop Art là trào lưu nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là tại Mỹ.
Pop Art nổi tiếng với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm… thậm chí đôi giày, tờ báo… làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật.
Cách thể hiện của trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa “Marilyn Monroe” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được thể hiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả “vật thật” như báo chí, lon bia, chai lọ… lên tranh. Một số bức họa đắt giá nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh.
- Trường phái Op Art
Sự ra đời của trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo giác.
- Trường phái Minimalism
Trường phái này nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thể chấp nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái Minimalism.
- Trường phái nghệ thuật nhận thức
Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ thuật hiên đại”. Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác.
Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệ thuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm.
- Các trường phái hội họa khác
Gần gũi nhất với chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ.
Danh Họa Paul Gauguin
Họa sĩ Picasso người Tây ban Nha (1881 – 1973)
Trường phái và phong cách: Chủ nghĩa lập thể, Biểu tượng, Chủ nghĩa siêu thực. Cubism, Symbolism, Surrealism
Bức Les Demoiselles d’Avignon (1907) nổi tiếng của danh họa Picasso
Ngoài ra còn các bức nổi tiếng khác của Picasso
Vậy, thế hội họa Việt Nam Như Thế nào?
Thông qua các biến động lịch sử
So với các nước châu Á khác và theo một số nhà bình luận nghệ thuật, Việt Nam là quốc gia sớm nhất gia nhập vào dòng chảy của mỹ thuật hiện đại cả về hình thức lẫn nội dung. Điều này có thể dễ dàng nhìn thấy khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời đầu những năm 1930 với sự hiện diện của các giáo sư người Pháp.
Kỹ thuật và cách sử dụng màu sắc của phong cách phương Tây là những gì thế hệ học sinh đầu tiên được đào tạo ở trường này học được. Các kỹ thuật này đã được các họa sĩ tốt nghiệp sử dụng để miêu tả bản chất thẩm mỹ của Việt Nam, đặc biệt là sự tự do và lòng quảng đại của một tâm hồn châu Á. Sự khởi đầu cơ bản như vậy đã đặt nền móng cho các thế hệ trẻ noi theo và dẫn họ đến thành công.
Trong những năm 1930, 1940 và 1950, thế hệ đầu tiên của Việt Nam tham gia vào thị trường nghệ thuật quốc tế là những họa sĩ hiện đại và được đánh giá cao tại Việt Nam cũng như nước ngoài. Từ đó, họ có danh tiếng và được vinh danh như những bậc thầy của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Trong số đó có Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên.
Các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc Mỹ vô tình phân chia mỹ thuật hiện đại Việt Nam thành nhiều phong cách khác nhau, mỗi phong cách đều có cái hay riêng. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất trong các tác phẩm mỹ thuật của miền Bắc và miền Nam thời kì hai miền bị chia cắt. Một mặt những cuộc chiến khốc liệt, tinh thần chiến đấu của nhân dân đã được phản ánh. Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực-phê bình, chủ nghĩa lãng mạn, và chủ nghĩa thoát ly với ước mơ hòa bình tràn ngập trong các sáng tác của các họa sĩ miền Nam.
Quá khứ và hiện tại
Trước năm 1975, mỹ thuật đương đại miền Bắc phát triển theo hướng hiện thực xã hội, với sự thành lập của trường Mỹ thuật Kháng chiến trong những ngày đầu của cuộc cách mạng những năm 1940. Tinh thần chiến đấu, làm việc vẫn được mô tả trong các tác phẩm tranh vẽ của các họa sĩ kháng chiến. Những tác phẩm này trong mắt các nhà sưu tầm nghệ thuật phản ánh những hoài niệm cho thời đại anh hùng của Việt Nam.
Trong thời gian nước ta đấu tranh cho độc lập và tự do, 45 họa sĩ và nhà điêu khắc của Trường Mỹ thuật và Trang trí và trường Cao đẳng Nghệ thuật Sài Gòn tham gia cách mạng. Tham gia vào cuộc chiến tranh cách mạng, hai thế hệ giáo viên và học sinh nuôi dưỡng cùng một lòng nhiệt thành yêu nước và sáng tạo nghệ thuật.
Sau năm 1975, con số 45 giảm xuống còn 36 người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Nhiều người trong số họ hiện là giáo sư tại Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng không từ bỏ nghiệp nghệ thuật của mình. Cổ Tấn Long Châu, Lê Văn Kinh, Nguyễn Sáng, Huỳnh Công Nhãn, Quách Phong, Nguyễn Văn Sơn, Lê Vinh, Hoàng Trầm là một vài ví dụ.
Các tác phẩm của họ trong 30 năm lịch sử đã được các nhà sưu tầm nghệ thuật đánh giá cao. Nhiều phòng trưng bày tư nhân hay liên kết của các nghệ sĩ kháng chiến đã thu hút một số lượng lớn người xem, và rất nhiều bức tranh của họ đã thành công về mặt tài chính.
Giai đoạn những năm 1960 – 1970, các thành viên của Hội Họa sĩ trẻ gồm Nguyễn Trung, Lâm Triết, Nghi Cao Uyên, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Đỗ Quang Em, Trịnh Cung… đã mang lại làn gió tươi mát của sự sáng tạo, tạo dựng được danh tiếng ở Việt Nam và thế giới.
Bên cạnh đó, các họa sĩ trẻ của chủ nghĩa siêu thực, trường phái nghệ thuật bán trừu tượng và trừu tượng dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Trung và Ca Lê Thắng đã thổi một bầu không khí sáng tạo mới, giúp đẩy nhanh quá trình hội nhập của mỹ thuật đương đại Việt Nam vào thế giới.
Mỹ thuật Việt Nam tại thị trường quốc tế và nội địa
Khoảng thời gian từ 1988 – 1990 có thể được xem như là cột mốc khi ở Việt Nam và đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh, thị trường nghệ thuật đã ra đời. Trước đó, vào đầu những năm 1980, một số người Việt định cư ở nước ngoài như Mỹ, Úc và Canada đã trở lại Việt Nam để thu thập tranh của các họa sĩ nổi tiếng Sài Gòn trước năm 1975, như Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Duy Thanh,… và tác phẩm của các nghệ sĩ danh tiếng như Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái,… Hoạt động của họ dần dần trở thành một chất xúc tác cho sự xuất hiện của thị trường nghệ thuật thú vị từ năm 1990 trở về sau.
Trước năm 1990, một tác phẩm tranh vẽ được bán với giá trên 1.000 USD là điều hiếm thấy. Nhưng kể từ đầu năm 1992, giá của các bức tranh Việt Nam đã tăng lên đáng kể do chất lượng riêng biệt của các tác phẩm. Giá 3.000 USD cho một bức tranh là khá phổ biến. Năm 1993, bức tranh sơn mài trừu tượng của Hồ Hữu Thủ đã được bán ở mức giá 15.000 USD cho một nhà sưu tầm người Nhật Bản. Vào cuối năm 1995, tại phòng trưng bày Lã Vọng ở Hong Kong, bức sơn dầu thực tế “The kettle and the Tea-cup” của Đỗ Quang Em đã được bán với giá 50.000 USD.
Có nhiều thay đổi về giá trị, ví dụ giá tranh của HS Lê Phổ tại phiên đấu giá gần đây nhất là vào ngày 26/5/2019
Tranh khỏa thân của Lê Phổ được mua giá kỷ lục 1,4 triệu USD
Đặc biệt, bức Khỏa thân (sơn dầu, 90,5cm x 180,5cm, 1931) của Lê Phổ trở thành bức tiêu điểm của toàn phiên đấu giá, đã được bán 10.925.000 HKD, tương đương gần 1,4 triệu USD, hơn 32,3 tỉ đồng.
Cũng từ năm 1990, khi nhiều nghệ sĩ Việt Nam được các nhà sưu tầm, phòng trưng bày và Hiệp hội Văn hóa Thế giới ngỏ lời muốn trưng bày các tác phẩm của họ tại các triển lãm quốc tế ở Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Australia, Hong Kong, Singapore, Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan, kỹ năng nghệ thuật của họ được đánh giá cao bởi cộng đồng nghệ thuật quốc tế. Từ đó về sau thị trường dịch thuật xuất hiện với số lượng những người sưu tầm quốc tế đến Việt Nam mua tranh tại chỗ và mời các nghệ sĩ cá nhân hoặc nhóm nghệ sĩ tham gia triển lãm ở nước ngoài ngày càng tăng.
Những việc này cho phép mỹ thuật Việt Nam nhanh chóng tái gia nhập với mỹ thuật thế giới sau nhiều năm gián đoạn. Tuy nhiên, cơ hội cho đại đa số các họa sĩ tham gia trao đổi với thế giới vẫn còn hạn chế. Đối với một số họa sĩ tài năng, điều kiện tài chính khó khăn là trở ngại lớn vì họ không dễ có được cơ hội tiếp xúc với các nhà sưu tầm nghệ thuật.
Cơ hội là ngang nhau cho cộng đồng nghệ sĩ tham gia giao lưu trong nước và quốc tế, đặc biệt là tham gia giao lưu về nghệ thuật thị giác – một điều kiện tiên quyết cần thiết cho các nghệ sĩ để đưa các tác phẩm sáng tạo của họ đến đỉnh cao. Đây là một mục tiêu cho thế giới nói chung và đối với Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Kể từ cuối năm 2018, tại Hà Nội, nhà đấu giá chuyên nghiệp Chon và tiếp đến là PI House ra đời, cũng có nhiều thay đổi đáng kể qua các phiên đấu giá, các buổi triển lãm hàng tháng, thể hiện sức sống mới lạ của mỹ thuật đương đại của Việt Nam ở nội địa và cả quốc tế
Hình ảnh tranh và thông tin nội dung đăng tải được lấy từ nguồn lưu của google.com
Older
– Danh Họa Nguyễn Tiến Chung (1914- 1976)
– Danh họa Émile Henri Bernard (28 /4/ 1868 – 16/4/ 1941)
– Danh Họa Paul Gauguin (1848 – 1903)
Newer
– Họa sĩ Vũ Cao Đàm – Danh Họa Vũ Cao Đàm
– Hanoi Art Tour- Meeting famous local artists
– Danh hoạ Edgar Degas (1834 – 1917)
– Danh Họa Vincent Van Gogh (1853-1890)
– Danh họa Alfred Sisley (1839 -1899)
– Danh Họa Claude Monet (1840 – 1926)
– Pierre Auguste Renoir (1841 – 1919)
– Phát hiện đàn tế nghìn năm dưới Nhà Quốc hội hiện đại
– Họa sĩ Mai Trung Thứ | 1906-1980
– Triển lãm tranh đông dương và đô cổ tại Hà Nội
– Họa sĩ lê Phổ – Danh Họa Lê Phổ – Giá tranh Lê Phổ ?
– Danh họa Việt Nam |Họa sĩ trường Mỹ Thuật Đông Dương
– Triển lãm tranh Phạm Lực tại bảo tàng mỹ thuật Hà Nội
– Danh Họa Pablo Picasso – (1881 – 1973)
– Tranh Phạm lực tại thủ đô Mỹ
– Họa sĩ La Lân và các bức tranh của ông
– Một số tranh của Lê Quý Tông