Lịch sử xã hội phát triển – thực chất, nhận thức trên thế giới và ở Việt Nam
Lịch sử xã hội phát triển – thực chất, nhận thức trên thế giới và ở Việt Nam
PGS, TS. Nguyễn Hữu Đổng
Lịch sử là gì? Lịch sử xã hội phát triển là gì? Đây là các câu hỏi chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Bằng tư duy khoa học, tác giả bài viết phân tích, làm sáng tỏ thực chất, hạn chế hiểu biết, đề xuất giải pháp nhận thức đúng đắn các khái niệm này, đồng thời xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh ở Việt Nam.
Thực chất, định nghĩa lịch sử xã hội phát triển
1) Lịch sử là gì?
Lịch sử bao hàm chữ “lịch” và “sử”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), lịch gắn với “năm, tháng, ngày”, nghĩa là nói về thời gian sống cổ xưa chưa thật của nhóm (tập thể) trong cộng đồng loài vật chưa phát triển, tri thức chưa khoa học; sử gắn với “hát nói có tiết tấu, làn điệu tương đối tự do”, nghĩa là nói về không gian sống tương lai không thật của cá nhân (cá thể) trong xã hội loài người không phát triển, tri thức không khoa học; còn lịch sử gắn với quá trình “phát sinh, phát triển đã qua hay cho đến tiêu vong của một hiện tượng, một sự vật nào đó”, nghĩa là nói về thời gian sống thực (thật) của cộng đồng (xã hội) loài vật, loài người phát triển trong thế giới tự nhiên, tri thức khoa học. Tức là, lịch sử biểu hiện thực chất sự thật phát triển loài vật, loài người trong thế giới tự nhiên.
Theo đó, lịch sử biểu hiện ở các mặt chủ yếu của nó như sau: bản chất nội dung chưa thật chưa phát triển của sự sống loài vật, tính chất hình thức không thật không phát triển của sức sống loài người, thực chất nguyên lý sự thật phát triển của cuộc sống loài vật, loài người. Nói cách khác, lịch sử gắn liền với sự thật và phát triển; không có sự thật là không có lịch sử; không có thế giới tự nhiên thì không có lịch sử tự nhiên; không có lịch sử tự nhiên thì không có khoa học tự nhiên; không có lịch sử xã hội thì không có khoa học xã hội; không có khoa học xã hội thì không có lịch sử chân thật của khoa học xã hội (the true history of social science) hay không có lịch sử chân thật của xã hội loài người (the true history of human society).
2) Xã hội là gì?
Xã hội bao hàm các chữ “xã” và “hội”. Xã nói về sự sống chưa thật của nhóm trong cộng đồng loài vật; hội nói về sức sống không thật của cá nhân trong cộng đồng loài người; còn xã hội nói về sự thật cuộc sống của cộng đồng loài vật, loài người trong thế giới tự nhiên. Tức là, xã hội biểu hiện thực chất cộng đồng xã hội loài vật, loài người trong thế giới tự nhiên. Từ khái niệm này cho thấy rằng, xã hội gắn liền với loài vật, loài người; không có xã hội loài vật thì không có xã hội loài người. Theo đó, trong thế giới loài người, không thể phân chia ra thành các giới người có “đẳng cấp” hay “giai cấp”, như: giai cấp công nhân, nông dân, bóc lột, bị bóc lột, tư sản, vô sản, mà chỉ có các cá nhân, cá thể, nhóm, tập thể, cộng đồng, xã hội loài người sinh sống, làm việc trong một khu vực, vùng, miền, lãnh thổ. Đặc biệt, trong thế giới loài người không thể có các hình thức tổ chức “nhà nước”, như nhà nước chủ nô, nô lệ, phong kiến, tư sản, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa hay nhà nước phúc lợi, mà chỉ có các tổ chức chính trị, xã hội, như “dân tộc” (cộng đồng) phát triển, chưa hoặc không phát triển; “nước” (quốc gia) dân chủ, chưa hoặc không dân chủ; cộng đồng quốc gia phát triển, chưa hoặc không phát triển ở các châu lục, khu vực địa lý khác nhau.
3) Phát triển là gì?
Phát triển bao hàm các thuật ngữ “phát” và “triển”. Phát biểu hiện bản chất chưa cân đối về môi sinh của các tập thể loài vật trong tự nhiên, chưa công bằng về quyền lợi vật chất của các nhóm trong cộng đồng người; triển biểu hiện tính chất không cân bằng về môi trường của các cá thể loài vật trong tự nhiên, không bình đẳng về giá trị tinh thần của các cá nhân trong nhóm; còn phát triển biểu hiện thực chất “sự cân đối, cân bằng, hài hoà về môi trường sống của các cá thể, tập thể, xã hội loài vật trong thế giới tự nhiên, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người” [1]. Tức là, phát triển biểu hiện ở các mặt chủ yếu như sau: bản chất quy luật chưa phát triển trong thế giới tự nhiên; tính chất hiện thực không phát triển trong xã hội loài người; thực chất quy luật, hiện thực phát triển khách quan trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Theo đó, thế giới tự nhiên không phát triển thì xã hội loài người không thể phát triển.
4) Mối liên hệ giữa lịch sử, xã hội và phát triển, thực chất lịch sử xã hội phát triển.
Lịch sử, xã hội và phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành lịch sử xã hội phát triển (historical social development). Khái niệm này biểu hiện ở các mặt chủ yếu của nó như sau: bản chất sự thật chưa công bằng về quyền lợi vật chất của các nhóm; tính chất thật sự không bình đẳng về giá trị tinh thần của các cá nhân; thực chất sự thật công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người. Tức là, lịch sử xã hội phát triển biểu hiện thực chất sự thật công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người. Theo đó, không có lịch sử xã hội phát triển thì không thể có sự thật xã hội phát triển, tức là không thể có cộng đồng loài người phát triển; ngược lại, không có cộng đồng loài người phát triển thì không thể có lịch sử xã hội phát triển, hay không thể có lịch sử cộng đồng quốc gia phát triển (history of national community development), không thể có lịch sử cộng đồng quốc tế phát triển (history of the development of the international community).
Hạn chế hiểu biết lịch sử xã hội phát triển trên thế giới và ở Việt Nam
- i) Hạn chế trên thế giới:
Lịch sử xã hội phát triển gắn liền với đời sống cộng đồng ở các quốc gia; tuy nhiên, hiểu biết khái niệm này của công dân nói chung, giới nghiên cứu nói riêng còn hạn chế. Chẳng hạn, giới nghiên cứu chưa hiểu biết rõ mối liên hệ giữa các mặt của lịch sử, xã hội, khoa học và phát triển như sau: lịch sử xã hội không khoa học gắn với xã hội không phát triển, lịch sử xã hội chưa khoa học gắn với xã hội chưa phát triển, thực chất lịch sử xã hội khoa học gắn với xã hội phát triển, dạng mô hình: bản chất lịch sử xã hội chưa khoa học, chưa phát triển – thực chất lịch sử xã hội khoa học phát triển – tính chất lịch sử xã hội không khoa học, không phát triển. Tức là, nhiều người nghiên cứu chưa hiểu rõ rằng, quốc gia không phát triển gắn liền với lịch sử xã hội không khoa học; đồng thời không hiểu rõ thế nào là lịch sử phát triển quốc gia (national development history) và lịch sử phát triển quốc tế (history of international development).
Hạn chế hiểu biết lịch sử xã hội phát triển làm cho giới nghiên cứu không phân biệt rõ mối liên hệ giữa tiến hoá thể hiện sự không phát triển (evolution represents non-development) và tạo hoá thể hiện sự phát triển (creation represents development), dạng mô hình: bản chất chưa tạo hoá, chưa phát triển – thực chất tạo hoá phát triển – tính chất tiến hoá, không phát triển. Tức là, nhiều người nghiên cứu chưa hiểu biết rõ mối liên hệ giữa tính chất tiến hoá, lịch sử xã hội không phát triển; bản chất chưa tạo hoá, lịch sử xã hội chưa phát triển; thực chất tạo hoá, lịch sử xã hội phát triển, dạng mô hình: bản chất lịch sử xã hội chưa phát triển – thực chất lịch sử xã hội phát triển – tính chất lịch sử xã hội không phát triển.
Hạn chế hiểu biết lịch sử xã hội phát triển dẫn đến sai lầm trong “thuyết tiến hoá – “theory of evolution” của Darwin”, khi ông cho rằng “con người tiến hoá dần dần qua từng thời kỳ từ vượn thành người” [2]; dẫn đến nhìn nhận sai lầm khi “các nhà khoa học đa số thống nhất loài người đã tiến hóa từ vượn người” [3], chứ không nhìn nhận đúng đắn con người, loài người phát triển (humanity develops); dẫn đến bạo lực theo quy luật “đấu tranh để sinh tồn” của Thomas Malthus [4]; dẫn đến sai lầm khi có người nghiên cứu cho rằng “giai cấp tạo ra các loài riêng biệt” và “văn hoá chia rẽ con người” [5]; hay dẫn đến quan điểm sai lầm của C.Mác và Ph. Ăngghen khi các ông cho rằng: “đấu tranh giữa những giai cấp cấu thành mỗi xã hội, luôn luôn là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển lịch sử” [6].
- ii) Hạn chế ở Việt Nam:
Hiểu biết lịch sử xã hội phát triển ở Việt Nam còn nhiều hạn chế; bởi vì, ngay cả khái niệm lịch sử, xã hội, phát triển đều chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Trong Từ điển Tiếng Việt như đã dẫn ở trên cho thấy rằng, lịch sử chỉ được nhìn nhận chung chung là quá trình “phát sinh, phát triển” chứ không được nhìn nhận là sự thật phát triển loài vật, loài người trong thế giới tự nhiên; xã hội chỉ được nhìn nhận chung chung là đông đảo “những người cùng sống một thời (nói tổng quát)” chứ không nhìn nhận cụ thể là cộng đồng xã hội loài vật, loài người trong thế giới tự nhiên; còn phát triển chỉ được nhìn nhận khái quát là hình thức “biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”, chứ không nhìn nhận cụ thể là nguyên lý cân đối, cân bằng, hài hoà về môi trường sống trong thế giới tự nhiên, công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người.
Hạn chế hiểu biết lịch sử xã hội phát triển làm cho công dân nói chung, đội ngũ cán bộ (đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, kiểm sát viên), người lãnh đạo, nghiên cứu nói riêng không hiểu biết, phân biệt rõ mối liên hệ giữa các mặt chủ yếu của khái niệm này như sau: bản chất lịch sử tập thể, nhóm chưa phát triển (collective and group history has not yet developed); tính chất lịch sử cá thể, cá nhân không phát triển (individual, individual history does not develop); thực chất lịch sử xã hội, cộng đồng phát triển (social history, community development), dạng mô hình: bản chất lịch sử nhóm chưa phát triển – thực chất lịch sử cộng đồng phát triển – tính chất lịch sử cá nhân không phát triển.
Hạn chế hiểu biết lịch sử xã hội phát triển làm cho nhiều người nghiên cứu không phân biệt rõ mối liên hệ giữa bản chất lịch sử dân tộc (nhóm, đảng phái, chưa đúng), thực chất lịch sử các dân tộc (cộng đồng, quốc gia, đúng), tính chất lịch sử cư dân (cá nhân, gia đình, sai); không phân biệt rõ mối liên hệ giữa tính chất lịch sử xã hội chủ nghĩa không phát triển (socialist history did not develop), bản chất lịch sử chủ nghĩa xã hội chưa phát triển (the history of socialism has not yet developed), và thực chất lịch sử xã hội phát triển (historical social development); dẫn đến quan điểm sai lầm khi có người nghiên cứu lập luận rằng “đấu tranh giai cấp” gắn liền với “những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội” [7]; hay dẫn đến quan điểm sai lầm về lịch sử loài người, khi có người nghiên cứu cho rằng “Lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau: Công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản và cộng sản chủ nghĩa” [8].
Giải pháp nhận thức đúng đắn lịch sử xã hội phát triển, xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh ở Việt Nam
1) Nhận thức đúng đắn lịch sử xã hội phát triển:
Lịch sử xã hội phát triển gắn liền với sự thực (sự thật) cộng đồng xã hội phát triển. Khái niệm này bao hàm các mặt chủ yếu của nó như sau: bản chất sự thật tập thể chưa phát triển (collective truth has not yet developed); tính chất thật sự cá thể không phát triển (actually the individual does not develop); thực chất sự thực xã hội phát triển (the reality of social development). Điều đó có nghĩa là, để nhận thức đúng đắn lịch sử xã hội phát triển, giới nghiên cứu cần phải phân biệt rõ mối liên hệ giữa các mặt của khái niệm này như sau: tính chất hiện tượng bên ngoài gắn với hình thức lịch sử xã hội không phát triển, khái niệm không khoa học; bản chất sự vật bên trong gắn với lịch sử xã hội chưa phát triển, khái niệm chưa khoa học; thực chất nguyên lý hiện thực toàn diện ở giữa gắn với lịch sử xã hội phát triển, khái niệm khoa học, dạng mô hình: bản chất sự vật, lịch sử xã hội chưa phát triển – thực chất hiện thực, lịch sử xã hội phát triển – tính chất hiện tượng, lịch sử xã hội không phát triển.
2) Xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh:
Lịch sử xã hội phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với xã hội dân chủ phát triển văn minh. Tuy nhiên, nhiều năm nay, mối liên hệ này chỉ được giới nghiên cứu nhìn nhận ở các mặt tính chất hình thức thật sự lịch sử không phát triển gắn với xã hội không dân chủ văn minh, bản chất nội dung sự thật lịch sử chưa phát triển gắn với xã hội chưa dân chủ văn minh, chứ không nhìn nhận rõ mặt thực chất nguyên lý sự thật lịch sử phát triển gắn với xã hội dân chủ văn minh tồn tại ở giữa, dạng mô hình: bản chất nội dung xã hội chưa dân chủ phát triển văn minh – thực chất nguyên lý xã hội dân chủ phát triển văn minh – tính chất hình thức xã hội không dân chủ phát triển văn minh.
Điều đó có nghĩa là, để xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh cần phải thay đổi cách tư duy từ tính chất hình thức xã hội không phát triển, bản chất nội dung xã hội chưa phát triển sang thực chất nguyên lý xã hội phát triển, đồng thời chú trọng nghiên cứu, giảng dạy sự thật và khoa học lịch sử phát triển cho công dân trong quốc gia.
Kết luận
Lịch sử xã hội phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất sự thật công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh trong quốc gia, xã hội loài người. Hiện nay, khái niệm này chưa được giới nghiên cứu làm rõ về tính chất hình thức sai lầm, bản chất nội dung chưa đúng đắn, thực chất nguyên lý đúng đắn. Đây được nhìn nhận là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều bất cập trong tư duy, nhận thức về khoa học nói chung, lịch sử, xã hội nói riêng, chưa tạo được nền móng cho đất nước phát triển bền vững. Để nhận thức đúng đắn lịch sử xã hội phát triển, xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh, giới nghiên cứu, đặc biệt là giới lãnh đạo cần phải đổi mới sáng tạo thật sự về tư duy từ tư duy chưa khoa học, không khoa học sang khoa học, đồng thời coi trọng nghiên cứu, giảng dạy tri thức về sự thật và lịch sử phát triển cho công dân trong quốc gia.
……………….
Tài liệu trích dẫn:
[1] https://vanhoavaphattrien.vn/xay-dung-moi-truong-van-hoa-phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-a17203.html.
[2] https://vnexpress.net/phan-biet-evolution-va-revolution-3659650.html.
[3] https://nghiencuulichsu.com/2017/04/25/nguon-goc-loai-nguoi/.
[4] https://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1870s/chongduhring/phan_08.htm.
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 708-709.