Các câu trích dẫn giáo lý của Đức Phật . Hoang phong chuyển ngữ
Các câu trích dẫn giáo lý của Đức Phật
Hoang phong chuyển ngữ
Câu 1 đến 25
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
Các lời “trích dẫn” (quotation, citation) thường bị hiểu lầm với các câu “châm ngôn” (maxim), “tục ngữ” (proverb), “ngạn ngữ” (saying) hay “cách ngôn” (aphorism). “Châm ngôn” là các câu ngắn gọn nêu lên một quan điểm đạo đức nào đó; “tục ngữ” cũng khá gần với châm ngôn, nhưng thường mang tính cách phổ cập và đại chúng hơn; “ngạn ngữ” là các câu nói xưa, nêu lên một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống hay một sự tin tưởng mang tính cách đại chúng; “cách ngôn” là những câu thật ngắn với mục đích khuyến dạy đạo lý thường tình. Tất cả các các thể loại này, từ châm ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ đến cách ngôn, đều không có tác giả, cũng không được trích dẫn từ một tư liệu nào cả, mà chỉ là những câu được truyền tụng rộng rãi trong dân gian.
Trái lại các câu trích dẫn (quotation/citation) có nguồn gốc và tác giả rõ rệt, nói chung là các câu đã được rút gọn và đơn giản hóa từ một quan điểm, một bài giảng, một luận cứ triết học hay tư tưởng của các tác giả hay danh nhân nào đó. Trong trường hợp dưới đây là những câu trích dẫn từ giáo lý của Đức Phật. Đôi khi người ta cũng thấy nhắc đến trong một số bài viết và bài giảng nhiều câu cho rằng là “lời Phật dạy”. thế nhưng thật ra đấy chỉ là những câu thêm thắt hoặc mang các ý niệm đạo đức thường tình. Các câu không trung thực này được xem là các “ngụy tác” hay “ngụy tạo” (apocryphal).
Ngoài ra người ta cũng nhận thấy các câu trích dẫn thường không được ghi rõ nguồn gốc và xuất xứ chính xác, có thể là vì các câu đã được đơn giản hóa này không cần phải nêu lên xuất xứ chăng? Dầu sao sự kiện này cũng là một điều đáng tiếc. Tuy nhiên đối với các câu nổi tiếng trích dẫn bởi các tác giả và sách báo đứng đắn thì cũng có thể tin tưởng tính cách trung thực của các câu trích dẫn đó. Mạn phép dài dòng như trên đây là để nêu lên sự cẩn thận thật cần thiết trong khi tìm hiểu các lời trích dẫn được phổ biến rộng rãi qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Dưới đây là 25 câu trích dẫn của Đức Phật do một nữ ký giả của một tờ nhật báo lớn tại miền Tây nước Pháp là Sabrine Zarhan chọn lựa. Các câu này cũng đã được đưa lên nhiều trạng mạng.
Nữ ký giả Sabrine Zarhan
Câu 1
Không sống với quá khứ, cũng không mơ tưởng tương lai. Hãy tập trung tâm thức
vào giây phút hiện tại.
Câu 2
Làm bùng lên sự giận dữ cũng chẳng khác gì nhặt một cục than hồng ném vào
kẻ khác. Người bị bỏng là chính mình.
Câu 3
Nước mắt rỏ xuống địa cầu nhiều hơn nước trong khắp đại dương.
Câu 4
Chẳng có gì là trường tồn cả, nếu không thì đấy chính là sự đổi thay (vô thường).
Câu 5
Một người chủ động được chính mình sẽ vĩ đại hơn cả vị Thầy của thế giới.
Câu 6
Một ngọn nến có thể châm lửa cho hàng chục ngọn nến khác, thế nhưng không phải vì thế mà nó sẽ tàn lụi sớm hơn.
Cũng vậy, hạnh phúc không hề giảm bớt khi mang ra chia sẻ với kẻ khác.
Câu 7
Chúng ta chính là những gì mà chúng ta suy nghĩ. Tất cả những gì là chúng ta nhất thiết đều được tạo ra bởi tư duy của chính mình. Chúng ta tạo ra thế giới của mình
xuyên qua tư duy của chính mình.
Câu 8
Thế giới quả mù quáng, những kẻ sáng mắt thật hiếm hoi.
Câu 9
Có bốn thứ tư duy không có một biên giới nào cả: đó là tình thương yêu, lòng từ bi, niềm hân hoan và sự thanh thản.
Câu 10
Hạnh phúc quả hiếm hoi, thật hết sức khó tìm thấy nó bên trong chính mình, thế nhưng
chắc chắn là sẽ không bao giờ có thể tìm thấy nó bên ngoài chính mình.
Câu 11
Hãy phát động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, dù họ giàu sang hay nghèo hèn.
Có chúng sinh nào lại chẳng khổ đau?
Một số khổ đau rất nhiều, một số khác ít hơn.
Câu 12
Có ba thứ không thể nào giấu diếm lâu dài được: mặt trời, mặt trăng và sự thật.
Câu 13
Hãy đứng lên như những con người ý thức, dù hôm nay chúng ta không học được gì nhiều, nhưng ít ra cũng học được một tí xíu.
Thế nhưng nếu không rút tỉa được gì cả từ một tí xíu đó mà mình đã học được, thì ít nhất mình cũng là những kẻ bệnh hoạn.
Thế nhưng dù mình không phải là những kẻ bệnh hoạn đi nữa, thì ít nhất mình cũng chưa phải là những người đã chết.
Vậy tất cả chúng ta hãy đứng lên như những con người ý thức.
Câu 14
Không bao giờ nên nhìn vào những gì mà mình đã hoàn tất, mà hãy nhìn vào những gì
mà mình còn phải làm.
Câu 15
Hãy tự đặt mình vào vị trí của kẻ khác, đấy là cách giúp mình không làm điều gì sai trái
đối với những người chung quanh.
Câu 16
Hận thù không bao giờ dừng lại với hận thù, hận thù chỉ chấm dứt với tình thương.
Câu 17
(Hãy sống tương tự như là mình sẽ chết vào ngày mai. Vậy hãy nên tập cách mà mình
sẽ phải sống mãi mãi.
(Nếu phải chết vào ngày mai thí mình mình cũng không có gì khiến mình phải hối tiếc hay ân hận, vì thế nếu phải sống lâu hơn thì cũng nên cố gắng không vi phạm một sự sai trái hay lỗi lầm nào)
Câu 18
Sự sống không phải là một vấn đề để giải quyết, mà là một sự thật
để cảm nhận nó.
Câu 19
Không ai trừng phạt mình vì sự giận dữ của mình, chính sự giận dữ của mình
trừng phạt mình.
Câu 20
Bất cứ một sự chinh phạt nào cũng đều tạo ra hận thù, bởi vì kẻ chiến bại sẽ lâm vào cảnh khốn cùng. Những ai giữ được sự bình lặng, buông bỏ những ý nghĩ chiến thắng
và cả chiến bại, tất sẽ tạo được hạnh phúc cho mình.
Câu 21
Mây không tan biến mà sẽ hóa thành mưa.
Câu 22
Không nên quá tin vào những gì không thể xảy ra, bởi vì chính những gì không thể xảy ra sẽ đến với mình.
Câu 23
Một nghìn chiến thắng trước một nghìn kẻ thù không sánh bằng một chiến thắng duy nhất
là chiến thắng chính mình
Câu 24
Giữa trời cao và đất rộng, không có một nơi an trú nào vĩnh cữu cả.
Câu 25
Hãy nghi ngờ tất cả, nhất là những gì tôi sắp nói ra.
***
Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ
Câu 25 trên đây “Hãy nghi ngờ tất cả, nhất là những gì tôi sắp nói ra” là một câu rất thường thấy trích dẫn trong các sách báo Tây phương, thế nhưng cô ký giả chọn lọc 25 câu trích dẫn trên đây lại đặt vào vị trí dưới cùng. Phải chăng đây là cách mà cô ký giả trên đây nhắc khéo chúng ta hãy xem xét và phán đoán cẩn thận 24 câu đã được nêu lên trước đó?
Sự nghi ngờ là một cách cửa mở ra cho chúng ta hai đường hướng suy nghĩ: tiêu cực và tích cực. Nghi ngờ tiêu cực là một sự khinh miệt, nghi ngờ tích cực là một cách bắt trí óc mình phải làm việc để truy lùng sự thật, giúp mình tiếp cận với một bầu không gian hiểu biết rộng lớn hơn. Trái ngược lại với sự nghi ngờ là đức tin, một điểm chấm hết, một cánh cửa khép lại. Đức tin là một hình thức xúc cảm, có thể mang lại cho chúng ta một sức mạnh rất lớn, thế nhưng đôi khi sức mạnh đó không được khai thông và hướng dẫn thích nghi và khéo léo bởi lý trí, khiến nó trở thành một sức mạnh mù quáng, có thể tạo ra nhiều đổ vỡ.
Câu 25 trên đây là một câu đã được rút gọn và đơn giản hóa từ câu sau đây trong Kinh Hoa Nghiêm (Gandavyuda-sutra còn gọi là Avatamsaka-sutra), một bản kinh của Đại thừa:
“Này các tỳ-kheo và các hiền giả, cũng tương tự như người thợ kim hoàn thử vàng bằng cách đốt, cắt, đập, phải xét đoán các lời của ta nói ra trước khi chấp nhận, không nên chỉ vì kính nể ta mà phải chấp nhận”.
Câu này cũng được viết cùng với một số câu trích dẫn nổi tiếng khác của các danh nhân khác trên trần nhà cao vút của gian phòng triển lãm rộng lớn của Thư viện François Mitterand và cũng là Thư viện Quốc gia Pháp tại Paris. Câu này cũng đã được thư viện in thành bưu thiếp bày bán ở quầy sách của thư viện. Người viết các câu này cũng đã lộng kính bưu thiết này và đặt lên bàn làm việc của mình từ gần hai mươi năm nay để luôn nhắc nhở mình phải cẩn thận trong việc viết lách, tra cứu và cả sự suy tư của mình.
Doutez de tout et surtout ce que je vais vous dire
(Hãy nghi ngờ tất cả, nhất là những gì tôi sắp nói ra)
Đức Phật (556-480 trước JC)
(xin lưu ý có nhiều giả thuyết với đôi chút khác biệt về năm sinh và năm tịch diệt của Đức Phật)
Đến đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu thêm vài câu trích dẫn khác, chẳng hạn như:
Câu 7: “Chúng ta chính là những gì mà chúng ta suy nghĩ…”. Câu này là một câu rút gọn từ bốn câu đầu tiên trong Kinh Dhammapada (“Kinh Pháp Cú”).
Câu 8: “Thế giới quả mù quáng, những người sáng mắt thật hiếm hoi”. Thật vậy thế giới luôn ở trong thể dạng chuyển động thường xuyên: xung đột, chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, chết chóc, pha lẫn với các thú vui hời hợt, các sự thỏa mãn phù du, kể cả các ảo giác và hy vọng trong tâm thần của mỗi cá thể. Hầu hết chúng đều có thể nhận thấy dễ dàng và thật hiển nhiên sự chuyển động đó của thế giới. Thế nhưng sự trông thấy ấy chỉ là một sự trông thấy mù quáng. Những người giác ngộ nhận thấy được nguyên nhân tạo ra sự chuyển động đó của thế giới, bản chất khổ đau của sự chuyển động đó và con đường giúp mình thoát ra khỏi thế giới đó, thì quả thật hết sức hiếm hoi.
Câu 9: “Bốn thứ vô biên”, kinh sách Hán ngữ gọi là “tứ vô lượng tâm”. Bốn phẩm tính này được nêu lên trong “Bài kinh về lòng Từ tâm” (Metta sutta, SN 46.54). Độc giả có thể xem bản Việt dịch của bài kinh này trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen:
https://thuvienhoasen.org/a33469/bai-kinh-ve-long-tu-tam
Câu 12: “Không thể giấu diếm sự thật lâu dài được”. Thật vậy, sự thật là thành phần của hiện thực, nằm trong sự vận hành chung của thế giới. Chúng ta có thể vô tình không trông thấy nó, hoặc trông thấy nó nhưng cố tình che dấu nó, thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, nó sẽ hiện ra với chúng ta một lúc nào đó. Phật giáo gọi các sự suy nghĩ của mình, ngôn từ của mình, cử chỉ và hành vi trên thân xác mình, bằng một thuật ngữ rất bao quát là karma. Karma là tiếng Phạn, tiếng Pali là kamma, nguyên nghĩa là “hành động”, có nghĩa là một cái gì đó chuyển động, tạo ra hay hình thành (act, action, deed), kinh sách Hán ngữ dịch là nghiệp/業, cách dịch này khá gượng ép nếu không muốn nói là sai, ít nhất là trên phương diện từ nguyên.
Nghiệp hay sự chuyển động là một sự thật, các tác động gây ra bởi nghiệp hay từ bất cứ một sự chuyển động nào dù thuộc bối cảnh bên ngoài hay bên trong tâm thức, đều là một sự thật. Nghiệp không thể nào che giấu được bởi nghiệp, mà chỉ là cách ghép thêm hành động vào hành động đưa đến các tác động ngày càng phức tạp hơn. Tuyên truyền, khẩu hiệu, hô hào – tức là các ngôn từ và cử chỉ – cùng với các thứ chủ nghĩa và ý đồ – tức là sự suy nghĩ trong tâm thức – sẽ đưa đến các sự suy nghĩ khác, các ngôn từ và hành động khác, tạo ra một tình trạng ngày càng phức tạp hơn, phản ảnh sự vận hành chung của thế giới. Câu 21“Mây không tan biến mà sẽ hóa thành mưa” cũng nói lên ý nghĩa trên đây: mây là một hành động, một sự suy nghĩ, nó không tan biến mà tạo ra một cái gì đó thật cụ thể.
Câu 13: “… Dù hôm nay chúng ta không học được gì nhiều, nhưng cũng học được một tí xíu”. Sống nhưng không trông thấy gì nhiều, chẳng học được gì cả từ những điều trước mắt, thì quả mình là một người bệnh hoạn, nếu không muốn nói là đã chết. Sống mà phải che mặt với tổ tiên, úp mặt với lịch sử, thì thật là đáng tiếc. “Hãy đứng lên như những con người ý thức”.
Câu 16: “Hận thù không bao giờ dừng lại với hận thù, mà chỉ chấm dứt với tình thương”. Câu này thật dễ hiểu, gần như là một sự hiển nhiên. Thế nhưng nhiều người vẫn cứ mượn hận thù để đáp lại hận thù. Đức Phật thuyết giảng về chủ đề này trong nhiều bài kinh, qua các góc nhìn khác nhau, đặc biệt và trực tiếp hơn cả là trong hai bản kinh ngắn mang cùng một tên là Kinh Sangama sutta (“Bài Kinh về một Trận chiến”, SN 3.14 và SN 3.15, chữ sangama có nghĩa là một cuộc chiến). Độc giả có thể xem hai bản dịch của hai bài kinh này dựa vào hai bản dịch tiếng Anh của nhà sư Thanissaro Bhikkhu trong phụ lục I và II dưới đây.
Cách nay đúng 10 năm, người viết các dòng này cũng đã chuyển ngữ hai bài kinh này nhưng đã được gộp chung thành một bản duy nhất bằng tiếng Pháp do Môhan Wijayaratna thực hiện. Độc giả có thể xem bản dịch này trên trang mạng TVHS: https://thuvienhoasen.org/a7259/chien-thang-va-chien-bai-kinh-sangama-sutta. Ngoài ra độc giả cũng có thể xem thêm hai bài kinh này trong Đại Tạng Kinh: http://www.daitangkinhvietnam.org/node/539, trong Phẩm thứ hai, mục IV,V mang tựa “Hai lời nói về chiến tranh”. Các bản dịch này cũng có thể tìm thấy trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen: https://thuvienhoasen.org/a611/03-chuong-iii-tuong-ung-kosala (Tập I, Phẩm Thứ Hai, Mục IV,V).
Câu 17: “Hãy sống tương tự như là mình sẽ chết vào ngày mai. Vậy hãy nên tập cách mà mình sẽ phải sống mãi mãi”. Câu này có nghĩa là nếu phải chết vào ngày mai thí mình cũng chẳng có gì đê hối tiếc hay ân hận, vì thế nếu phải sống lâu hơn thì cũng nên giữ gìn như thế nào để không vi phạm một sự sai trái hay một lỗi lầm nào.
Câu 18: “Sự sống không phải là một vấn đề để giải quyết, mà là một sự thật để cảm nhận nó”. Tuy ngắn gọn thế nhưng câu này thật ra nêu lên một vấn đề vô cùng sâu sắc. Vậy sự sống là gì và con người là gì? Sự sống tự nó không hàm chứa một ý nghĩa “triết học siêu hình” nào cả, cũng không mang một “chủ đích” hay “mục đích” cụ thể nào cả. Sự sống qua sự hiện hữu của một con người chỉ là một hiện tượng, tương tự như tất cả mọi hiện tượng khác, một sự thật “trần trụi”. Tín ngưỡng – nói một cách khác thì cũng là chính chúng ta – là một sản phẩm phụ của sự sống, đã gán thêm cho sự sống một ý nghĩa nào đó. Trên thực tế, sự sống chỉ là một sự cảm nhận, một sự ý thức mơ hồ nào đó về sự hiện hữu của mình trong sự chuyển động chung của thế giới.
Vậy chúng ta cảm nhận cái gì trong sự sống khi mình đang sống, ý thức được điều gì khi mình đang hiện hữu? Thật hết sức đơn giản: chúng ta cảm thấy “khổ đau” trong sự sống khi mình đang sống (ít nhất là cái chết đang chờ đợi mình), chúng ta ý thức được sự “chuyển động” của thế giới khi mình đang hiện hữu trong thế giới (ít nhất là sự già nua của mình trong từng ngày). Phật giáo gọi sự “khổ đau” mang tính cách hiện sinh và nội tại đó của sự sống là duhkha (suffering, sorrow) và gọi sự “chuyển động” của thế giới, trong đó kể cả sự sống, là karma (act, action, deed/ nghiệp).
Dhukha là một sự thật, karma là một sự thật, là hai khía cạnh của sự sống mà chúng ta có thể “cảm nhận” được chúng thật dễ dàng trên thân xác mình, trong tâm thức mình và cả bên ngoài thế giới. Đấy là vế thứ hai của câu trích dẫn trên đây: “Sự sống không phải là một vấn đề để giải quyết, mà là một sự thật để cảm nhận nó”. Chúng ta sống không phải là để giải quyết sự chuyển động đó của sự sống, và thật ra cũng không thể làm dừng lại hay chuyển hướng khác đi sự vận hành đó của vũ trụ, mà chỉ có thể “cảm nhận” được sự thật của sự vận hành đó.
Thế nhưng một khi đã trông thấy được sự vận hành đó tức là karma và cảm nhận được sự thật đó tức là dhukha, thì chúng ta phải làm gì, phải hành động như thế nào? Chúng ta nên tạo ra thêm cho sự “vận hành” đó một chút ý nghĩa, và cho “sự thật” đó một chút chủ đích, có nghĩa là chúng ta hãy thổi vào cho sự sống một chút từ bi và tình thương yêu, là một chút gì đó cao cả hơn, thay vì chỉ biết cảm nhận sự sống như là một sự thật “vô nghĩa” và “trần trụi”.
Câu 22: “Không nên quá tin vào những gì không thể xảy ra, bởi vì chính những gì không thể xảy ra sẽ đến với mình”. Ý nghĩa của câu này có vẻ vừa bao quát vừa mơ hồ, thế nhưng cũng có thể phản ảnh các bối cảnh các sự kiện rất cụ thể. Chẳng hạn mình nghĩ rằng tai nạn và thiên tai xảy là chỉ để đăng tải trên báo chí để mọi người xem, chẳng liên hệ gì đến mình. Hãy nêu lên một trường hợp khác, chẳng hạn như các vị lãnh tụ, các tướng lãnh gây ra chiến tranh và chết chóc cho hàng triệu người, đến khi chết được mọi người tôn vinh như những bậc anh hùng, xây lăng, đúc tượng, được những người tu hành làm lễ truy điệu long trọng, khiến chúng ta cứ nghĩ rằng và tin chắc rằng họ sẽ không thể nào rơi xuống địa ngục được.
***
Câu 26 đến 39
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc.
Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddha/30.php
***
Câu 26
Một người mắt bị cườm (cataract) trông thấy các đốm đen nhưng tin rằng đấy là các con ruồi đang bay. Cũng vậy, mọi sự vật chẳng khác gì như những con ruồi chập chờn trước mắt, tất cả đều là hư cấu (fiction/ hư ảo), phát sinh từ sự tưởng tượng của những kẻ điên rồ.
(Lankavatara-sutra/ Kinh Lăng-già)
Câu 27
Những ai trông thấy ta qua vóc dáng của ta,
Những ai bước theo ta vì nghe thấy tiếng nói của ta,
Là những kẻ phát động những cố gắng sai lầm.
Họ sẽ không trông thấy ta.
(Saddharma-pundarika-sutra/Kinh Hoa Sen, còn gọi là Kinh Pháp Hoa)
(Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy Đức Phật, trông thấy Ngài và bước theo vết chân của Ngài xuyên qua Giáo Huấn của Ngài mà thôi)
Câu 28
Nếu muốn trông thấy chư Phật thì phải nhìn vào Dharma (Đạo Pháp).
Nếu muốn tìm thấy những lời khuyên dạy thì phải nhìn vào hiện thân của Dharma.
Thế nhưng bản chất đích thật của Dharma là gì thì không sao có thể nhận biết được.
Không ai có thể hiểu biết (nắm bắt, nhận thức) được nó như là một đối tượng (một hiện tượng, một sự vật cụ thể).
(Vajracchedika-Prajnaparamita-sutra/ Kinh Kim cương)
(Dharma không phải là một cái gì cụ thể trong thế giới hiện tượng để có thể nhận thức, nắm bắt hay cảm nhận được nó như là một đối tượng của sự hiểu biết thông thường và quen thuộc của mình trước các hiện tượng khác trong thế giới. Dharma tự nó là một sự hiểu biết của sự hiểu biết, nói một cách khác là trí tuệ)
Câu 29
Như những vì sao, những con ruồi đang bay hay ánh lửa của một ngọn đèn dầu,
Như một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai, hay một bọt bong bóng,
Một giấc mơ, một tia chớp hay một áng mây bay,
Đấy là cách phải nhìn vào mọi hiện tượng tạo tác từ các điều kiện trói buộc.
(Kinh Kim cương)
(“Mọi hiện tượng tạo tác từ các điều kiện trói buộc” có nghĩa là tất cả mọi hiện tượng đều phải tương liên và tương tác với nhau để hiện hữu, nói một cách đơn giản hơn là các hiện tượng phải lệ thuộc vào nhau để mà có (co-production conditioning), không có một hiện tượng nào “độc lập” một cách tự tại và nội tại cả. Mọi hiện tượng đều phải lệ thuộc vào nhau để hiện hữu và cùng nhau chuyển động trong thế giới. Sự trói buộc, tương quan và liên đới đó là một quy luật toàn cầu, tiếng Phạn gọi là Pratityasamutpada. Trong thế giới và cả bên trong tâm thức chúng ta, tất cả mọi hiện tượng cùng hiện ra và biến mất, chẳng khác gì như một tia chớp hay một áng mây bay…).
Câu 30
Thời gian là một vị thầy vĩ đại, thế nhưng vị thầy ấy cũng giết đám học trò của mình bằng sự bất hạnh.
(Thời gian là một vị thầy giúp chúng ta trông thấy được sự chuyển động của thế giới và nhận thức được hiện thực của thế giới. Thế nhưng nếu chúng ta bám chặt vào quá khứ, hy vọng vào tương lại, phác họa các viễn tượng phía sau cái chết…, thì đấy chính là cách mà thời gian sẽ tạo ra khổ đau tức là tình trạng bất toại nguyện thường xuyên của mình. Trong trường hợp đó thời gian sẽ không còn là một vị thầy nữa mà trở thành một hung thần, một kẻ sát nhân).
Câu 31
Tất cả chúng sinh đều là Phật, đều hàm chứa trí tuệ và đạo đức bên trong chính mình.
Câu 32
Toàn là khổ đau, toàn là vô thường.
(Trong thế giới hiện tượng chẳng có gì khác cả, ngoài hai thứ ấy).
Câu 33
Bạn không thể nào ngao du trên con đường một khi chính bạn chưa phải là con đường.
(Khi nào chưa thấu triệt được Dharma thì không thể nào hòa nhập với Dharma và trở thành Dharma được)
Câu 34
Hiến dâng sự thật là sự hiến dâng vượt lên trên tất cả các sự hiến dâng khác.
Câu 35
Hãy tự thắp đuốc để soi đường cho mình, tự biến mình thành hòn đảo của chính mình, nơi an trú cho mình. Không nên tìm một nơi an trú nào bên ngoài chính mình.
.
.
Sau đây là bốn câu trích dẫn nổi tiếng nhất, ngắn nhất,
dài nhất và đẹp nhất của Đức Phật
Câu 36
Câu trích dẫn nổi tiếng nhất của Đức Phật:
“Hãy trông cậy tất cả từ bên trong chính mình”.
Câu 37
Câu trích dẫn ngắn nhất của Đức Phật:
“Hãy trông cậy tất cả từ bên trong chính mình”
Câu 38
Câu trích dẫn dài nhất của Đức Phật:
“Hãy tìm chư Phật bên trong Dharma (Đạo Pháp).
Hãy đón nhận những lời khuyên dạy từ bên trong hiện thân của Dharma.
Thế nhưng bản chất đích thật của Dharma là gì,
thì lại không thể nào có thể nhận biết được.
Không ai có thể thấu triệt được Dharma dưới hình thức một đối tượng”.
(Dharma là một “Sự Thật” toàn cầu và tuyệt đối, mang kích thước vũ trụ, có nghĩa là vượt lên trên thế giới hiện tượng, vì thế không thể nào có thể hình dung Dharma như là một đối tượng của sự hiểu biết thông thường).
Câu 39
Câu trích dẫn đẹp nhất của Đức Phật:
“Chúng ta tạo ra thế giới bằng tư duy của chính mình”
Bures-Sur-Yvette, 14.11.20
Hoang Phong chuyển ngữ