‘Trúc quân tử’ trong hội họa Trung Hoa truyền thống
‘Trúc quân tử’ trong hội họa Trung Hoa truyền thống
Trong văn hóa phương đông cổ xưa, trúc được ca ngợi là loài cây mang phẩm chất đạo đức cao, là biểu tượng cho sự khiêm tốn của người quân tử.
Có câu “Tuế hàn tam hữu”, ý chỉ tùng trúc mai, ba loài cây đều trong tiết sương giá mà vẫn xanh tươi.
Cây trúc có phương thức sinh trưởng rất đặc biệt, khác với những loài cây khác, đầu tiên là những chồi non vươn lên khỏi mặt đất, đua ra từng đốt từng đốt mà vươn lên, khai cành phát lá, tượng trưng cho sự “hữu chí hữu tiết”.
Cây trúc có bề ngoài bóng bẩy sạch sẽ, là một loài thực vật không dễ trèo, tượng trưng cho sự “không ưa nịnh nọt”.
Toàn thể cây trúc tự như rất yếu vì thân rỗng mà lại bền bỉ với vỏ ngoài vững chắc, dù có gió to, mưa bão, tuyết rơi thì lúc nào cũng “lấy nhu thắng cương”.
Vì thế mà, cố nhân xưa luôn luôn yêu thích vẻ đẹp kiêu hãnh và rắn rỏi của trúc.
Khả sử thực vô nhục, bất khả cư vô trúc.
Vô nhục lệnh nhân sấu, vô trúc lệnh nhân tục
(“Ư Tiềm tăng Lục Quân Hiên” – Tô Thức)
Dịch nghĩa:
Sống có thể không cần ăn thịt
Ở không thể thiếu bóng trúc
Không ăn thịt khiến cho người gầy guộc
Không trúc khiến cho người phàm tục đi
Cây trúc, có thể nói là một chủ đề không bao giờ cũ; chữ và tranh về trúc là một trong những hình thức thể hiện nghệ thuật độc đáo ở Trung Hoa.
Vậy những danh họa gia nào đã được sinh ra trong nền văn hóa này?
Những tác phẩm tiêu biểu đã thể hiện được đặc sắc gì?
Người đầu tiên mở đầu cho làn gió hội họa về trúc là Quan Vũ, Ngô Đạo Tử, Vương Duy, Đường Huyền Tông v.v…
Một trong những bậc thầy họa trúc phải kể đến trong thời Đường đó là Tiêu Duyệt. Trong cung phủ Bắc Tống có cất giữ 5 bức họa của ông, nhưng đến nay đã thất truyền.
Trong “Triều đại danh họa ký” của Trương Ngạn Viễn có thể hiện sự sùng bái tới Tiêu Duyệt như sau: “Công trúc, nhất sắc, hữu nhã thú”, có ý nghĩa là Tiêu Duyệt chuyên vẽ tranh về trúc, ông rất thích thú với chủ đề này.
Hung hữu thành trúc – lối vẽ của Văn Đồng, Tống triều
Vào thời nhà Tống, nổi bật nhất trong họa trúc phải kể đến là Văn Đồng (1018-1079).
Văn Đồng, tự là Dữ Khả, từng làm quan tại Hồ Châu, Dương Châu và Tri Châu, người ta thường gọi ông là “Văn Hồ Châu”.
Thời kỳ ông làm quan lại Hồ Châu và Dương Châu, ông phát hiện được Vân Đương cốc ở phía Bắc thành Dương Châu, trong cốc trồng rất nhiều trúc, rừng trúc ở khắp mọi nơi, đây chính là địa điểm rất hấp dẫn đối với các văn nhân nhã sĩ.
Văn Đồng cho xây dựng một ngôi đình trong cốc, sau khi bận chuyện chính sự, ông thường cùng giai nhân và bằng hữu tới ngao du, ngắm trúc.
Vì có thời gian quan sát lâu dài và tỉ mỉ, dần dần, ông cất giữ cho mình được cả nghìn bức thiên sơn, trong đó không thể không có bóng dáng của trúc.
Ông đặc biệt giỏi vẽ trúc, người đến học ông rất nhiều, ông được biết đến với danh xưng “Hồ Châu trúc phái”.
Văn nhân triều Tống bàn luận về tranh của ông và nói rằng, ông dùng phương pháp “hung trung hữu thành trúc” (Trong tâm và suy nghĩ đã có sẵn hình ảnh cây trúc.)
Tranh về trúc phần lớn được vẽ từ góc độ theo thói quen của từng người. Đa phần là từ dưới ngước lên trên, vì nó phù hợp với tầm nhìn.
Những người đã quen với quan điểm thẩm mỹ như vậy, khi nhìn thấy bức tranh “Mặc trúc đồ” của Văn Đồng thời Bắc Tống chắc chắn sẽ không khỏi giật mình.
Trong bức họa, chỉ có một thân cây chính, từ trên cao hướng xuống, phần cành tỏa ra theo độ cong của thân chính.
Từ phần cành mọc ra những chiếc lá, đây chính là tinh hoa của bức tranh, dưới cùng một ngòi bút, hạ xuống như thanh kiếm, nồng đậm nhạt trên phiến lá, cùng với những chi cành nhỏ nhắn, uốn lượng rất tự nhiên.
Cây trúc trong bức tranh dường như còn sống, nó có sinh mệnh, tựa như đang “nhảy múa”.
Văn Đồng bỏ ngoài những vấn đề về sự giống nhau với sự vật bên ngoài, chỉ lấy trực giác đi vẽ, “ý tại bút tiên”.
Mỗi chi mỗi lá đều không thể thiếu, bọn họ là hóa thân của nhiều sinh mệnh tiểu thế giới của bức họa này, một thế giới tràn đầy sức sống, hài hòa và vô tận.
Bức họa này của Văn Đồng đã ảnh hưởng đến không ít những danh họa đời sau, sau này chúng ta có thể phát hiện ra một vài bức khá quen thuộc với góc nhìn giống đời trước.
Tuy nhiên sức mạnh mà Văn Đồng tiết lộ ra, phảng phất từ trên xuống dưới, mang một nội hàm khí vận lớn, không phải là thứ mà người thường có thể sao chép.
Dĩ thư nhập họa – Kha Cửu Từ, thời Nguyên
Vào thời nhà Nguyên, xuất hiện rất nhiều danh họa vẽ trúc, như Triệu Tử Ngang, Quản Đạo Thăng, Khả Cửu Tư, Ngô Trấn, Nghê Toản.
Cũng giống như tiền nhân, họ cũng có những nghiên cứu và cách phát triển những phương pháp vẽ trúc độc đáo.
Một mặt, họ muốn thông qua trúc để thể hiện bản thân, biểu đạt tâm tình, một mặt cũng muốn làm cho những bức họa trúc càng ngày càng sinh động, tiên hoạt, phong phú và có khí lực của sinh mệnh.
Kha Cửu Tư (1290-1353?), hiệu là Đan Khâu Sinh, là một nhà giám định văn vật, một nhà sưu tầm cổ học, một họa sĩ, người Tiên Cư, Chiết Giang. Bức “Thanh Bì các mặc trúc đồ” là Kha Cửu Tư vì Nghê Toản mà vẽ.
Về mặt kỹ thuật, vẽ trúc có thể chia thành hai phần lớn, đầu tiên là phương pháp phác họa “họa trúc” cùng với phương pháp viết ý “tả trúc”.
Kha Cửu Tư dùng cả hai phương pháp vào trong cùng một bức họa, kiêm viết kiêm vẽ. Ông đã sử dụng suân pháp để phác họa tảng đá (suân pháp: một lối vẽ của Trung Quốc, đặt nghiêng ngọn bút lông quệt mực khô nhạt để thể hiện vân đá và mặt nam mặt bắc của núi, sau khi phác ra đường nét chung), tạo nên một tảng đá to lớn có sức nặng, mang một cảm giác lập thể.
Bút pháp này cũng được sử dụng khi vẽ trúc, thân tre sáng bóng mà dùng mực nhạt, các đốt được vẽ theo những nét móc lên xuống, phần mực từ nông đến sâu, sau đó được nhuộm lại bằng nước.
Kha Cửu Tư cũng học cách vẽ lá trúc từ Văn Đồng, nhìn rất hấp dẫn và đẹp mắt.
Những đường nét lá tre của ông vừa vững chắc vừa phiêu dật, đều đều từng phiến mà hữu thần, đầu nhọn ở cuối được kéo tương đối dài.
Phiến lá cho sự phân chia đậm nhạt rõ rệt. Sau khi lấy mực tô lên chiếc lá, tùy ý là đưa thêm những chiếc lá nhạt, khiến tầng thứ được phơi bày rõ ràng, chẳng những nhìn thấy thần thái của một chùm lá, mà từ trước ra sau còn tạo nên một cảm giác về không gian.
Sau khi hoàn thành phần lá, họa gia còn đưa thêm những nhánh rất nhỏ điểm lên phần nhọn, xen ke cụm tre, khiến cho cả cụm tre càng lộ vẻ rậm rạp, um tùm, khí vận sinh động cũng như vậy mà vươn mình.
Khi ấy, văn nhân khởi xướng “dĩ thư nhập họa”, tức đưa thư pháp vào trong tranh để làm phong phú thêm hình ảnh.
Kha Cửu Tư cũng vận dụng điểm này mà viết thư pháp làm bức tranh trở nên hài hòa và thống nhất hơn.
Ngoài việc yêu cầu về bút pháp, màu mực phong phú đa dạng, có ý vị ra, đồng thời để cho thư pháp đi vào tranh dưới dạng đề khoản hay thơ văn, hình thức này cũng tiến vào một cách rộng rãi.
Lúc này, cần chú ý đến việc sắp xếp bố cục, kiểu chữ lớn nhỏ, độ dài của câu, số lượng từ, loại phông chữ cùng với sự kết hợp các kí tự v.v. tất cả đều cần một thao tác cẩn thận, thế mới tạo ra một bức “thư họa nhất thể”, khai sáng một bố cục mới.
Trong những bức họa về trúc của Trung Hoa đều ẩn chứa đậm đà văn hóa cùng với phẩm chất con người và triết học thời đại.
Hình ảnh trúc lưu lại một văn hóa mỹ học, ảnh hưởng tới các thế hệ đời sau.
Các tác phẩm hội họa thuộc triều Minh và Thanh là một phần rất quan trọng trong kho tàng văn hóa nghệ thuật Trung Hoa cổ đại.
Thời kỳ này có sự phát triển phong phú và rực rỡ nhất trong lĩnh vực hội họa, đặc biệt là trong chủ đề cây trúc, đã xuất hiện nhiều họa gia đặc sắc, với những nét riêng biệt và độc đáo.
Vương Phất triều Minh – “nhất tuyệt” trong hội họa về trúc.
Vương Phất, tự là Mạnh Đoan, trong sử sách không ghi rõ lai lịch. Ông là người nổi tiếng với những bức họa về trúc, được người đời Minh công nhận.
“Minh sử ‧ Liệt truyện đệ nhất thất tứ” ghi lại về Vương Phất rằng: “Bác học, công, ca, thơ, thư, vẽ thủy mộc trúc thạch, tuyệt diệu một thời.”
Qua đó có thể thấy ông là “nhất tuyệt” trong hội họa về trúc.
Các họa gia thời Minh có xu hướng tôn thờ các danh họa cổ đại và tôn trọng truyền thống của các thời đại Tống, Nguyên trước đó.
Vương Phất cũng không phải là ngoại lệ, ông đã kế thừa cách vẽ trúc của Văn Đồng, Kha Cửu Tư và Nghê Toản.
Tuy tôn sùng họ, nhưng ông vẫn có con đường riêng của mình, từ bố cục đến bút pháp và màu mực đều có những điểm độc đáo riêng, ôn hòa nhã nhặn, tự nhiên phiêu diêu; phong cách đặc biệt này đã mở ra một trang mới về họa trúc vào cuối thời Nguyên đầu thời Minh.
“Phong trúc đồ” của Vương Phất vẽ một tập hợp cành nhánh trúc có độ dài khác nhau, rủ từ trên xuống dưới, trong làn gió nhẹ bay, như phát ra tiếng nhạc.
Phần trên của bức họa có những chiếc lá trúc trong trẻo thanh tú, như tỏa ra ánh sáng của sinh mệnh.
Một cành trúc nhỏ đột nhiên tách ra theo gió rủ xuống, chầm chậm lắc lư.
Các nhánh trúc mảnh mai được lộ ra trong nét tao nhã và yên bình này.
Những chiếc lá cọ sát vào nhau, như tạo ra một khúc nhạc, khiến cho người xem có một cảm thụ hết sức tuyệt vời, dễ dàng gạt bỏ được những sân si trong cuộc đời mà hòa mình vào dáng vẻ thướt tha, linh động có hồn của cành trúc.
Kể từ thời Nguyên, các văn nhân họa gia thịnh hành việc đưa thư pháp vào trong tranh.
Trong bức “Phong trúc đồ” này, tác giả đã sử dụng cách viết thư pháp để vẽ lá trúc, các phiến lá ở trung tâm tạo thẩm mỹ cho toàn bộ bức tranh; ông dùng khải thư bút ý, từng nét bút từng nét vẽ đều được tuân thủ nghiêm ngặt theo bút pháp, khiến cho lá trúc nhìn bề ngoài ưu mỹ nhưng đều có nội hàm sâu sắc.
Trịnh Tiếp triều Thanh – “Tam tuyệt” thi, thư, họa
Trịnh Tiếp (1693-1766), tự là Khắc Nhu, hiệu là Bản Kiều, là người huyện Hưng Hóa, định cư ở Tô Châu. Ông là một quan viên trong triều đại nhà Thanh, một học giả, một thư họa gia giỏi vẽ trúc, cả cuộc đời ông hầu như đều vẽ trúc và thạch.
Ông nói rằng ông không được truyền thừa từ một người thầy nào, mà đều là tự nhiên học được: “Phàm khi ta vẽ trúc, không có sư phụ truyền thừa, đều là ngồi bên cửa sổ tùy hứng dưới ánh trăng” (“Đề trúc thi”).
Ông là người thông qua việc quan sát và nhận thức trong thời gian dài mà có kinh nghiệm, nắm giữ kỹ xảo tinh túy, sáng chế ra một phong cách vẽ đơn thuần mà chỉ riêng mình có.
Họa gia trứ danh Từ Bi Hồng nói trong “Lan trúc thạch trục” rằng: “Bàn Kiều tiên sinh là một trong những nhân vật nổi bật nhất của Trung Hoa trong vòng 300 năm qua, một tư tưởng hiếm thấy, văn chương hiếm thấy, thư họa hiếm thấy; thơ văn và thư họa thường được ông gộp lại với nhau, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là một thiên tài cổ kim hiếm có“.
Trịnh Tiếp khi vẽ tranh thường thích đưa thơ và thư pháp vào.
Khác với những họa gia khác sử dụng thơ như một yếu tố ngoại vi để làm nổi bật chủ đề, Trịnh Tiếp đều coi những yếu tố này là bình đẳng với nhau, để chúng đều trở thành một phần quan trọng của mỗi bức tranh.
Thơ ca, thư pháp, hội họa được đan xen và đổi mới qua từng tác phẩm.
Trong nghệ thuật, ông chính là muốn biểu hiện bản thân về quan niệm nhân sinh và lý niệm về sinh mệnh.
Trên phương diện thư pháp, ông thường lấy chữ Lệ làm chủ, dung hợp với Khải thư và Hành thư, đặc biệt cộng thêm phong cách của bút thể trên bia đá phương Bắc, hình thành một phong cách rất đặc biệt.
Thế nhân vì thế mà gọi ông là “tam tuyệt” – thi, thư, họa.
Phần đề khoản trong mỗi bức họa đều rất hữu cảm, ngụ ý sâu sắc, toàn bộ quá trình vẽ và viết ông đều giao phó cho trái tim dẫn lối, qua đôi mắt mà hóa thành câu thơ. Thực tế, những câu thơ của ông đều là biểu hiện của chính mình.
Những thơ đề của Trịnh Tiếp
Chúng ta hãy xem triết lý mà Trịnh Tiếp tiên sinh đã tiết lộ trong những câu thơ dưới đây.
Ông đã đưa ra một cái nhìn về cuộc sống từ những thân trúc:
Tứ thập niên lai họa trúc chi,
Nhật gian huy tả dạ gian tư,
Nhũng phồn tước tẫn lưu thanh sấu,
Họa đáo sinh thì thị thục thì.
Dịch nghĩa:
Bốn mươi năm qua vẽ cành trúc
Ban ngày hay ban đêm đều viết sầu tư
Kể cả khi hao mòn thân xác đến gầy gò
Vẽ từ lúc bắt đầu cho đến khi quen thuộc.
“Thanh đại học giả tượng truyện” nói rằng, hai phần ba cuộc đời của Trịnh Tiếp đã gắn liền với thân trúc; Một đời của con người liệu có được bao nhiêu cái 40 năm?
Ông gần như đã sử dụng toàn bộ để vẽ trúc; khi ông thành thạo, đối mặt với muôn hình vạn trạng của thân cây trúc ông đều có thể vẽ ra nét mới; cũng giống như đời người lão luyện thấu triệt cảnh giới.
Nha trai ngọa thính tiêu tiêu trúc,
Nghi thị dân gian tật khổ thanh;
Ta tiểu Ngô Tào Châu huyền lại,
Nhất chi nhất diệp tổng quan tình.
Dịch nghĩa:
Nằm nghe tiếng trúc tiêu điều
Hoài nghi nỗi khổ hạnh dân gian
Dùng chút danh quan huyện Tào Châu
Một cành một lá cũng đều thể hiện tình cảm của quan.
Ông đúng là một vị quan chuyên cần, liêm minh, yêu dân như con; đặc biệt khi nhậm chức ở huyện Tào Châu, vì cứu nạn cho dân, ông đã cho xây dựng nhà làm cháo, quyên góp tiền, mở tiệm cho vay cứu tế, nghĩ mọi phương cách để giúp người dân thoát khỏi khó khăn.
Giảo định thanh sơn bất phóng tùng,
Lập căn nguyên tại phá nham trung.
Thiên ma vạn kích hoàn kiên kính,
Nhâm nhĩ đông tây nam bắc phong.
Dịch nghĩa:
Núi xanh không buông lỏng
Cành đứng phá vỡ nham thạch
Hàng ngàn giày vò hàng vạn đả kích vẫn kiên cố
Chịu đựng gió bão tứ phương,
Trịnh Tiếp thông qua việc vịnh thán cây trúc, ẩn dụ cho sự kiên trì của bản thân ông và thể hiện sự không lo lắng trước những khó khăn khảo nghiệm khi ông làm quan.
Hầu hết các bức họa trúc của Trịnh Tiếp đều theo phương pháp vẽ ý. Nhìn vào bức “Mặc trúc đồ”, ta thấy những chiếc lá như đang nhún nhảy, với những hướng vẽ tùy ý thay đổi, cho thấy khí chất sống động và hồn nhiên của trúc.
Đối với nhiều họa gia qua các triều đại, trúc không chỉ dâng hiến vẻ ngoài để họ họa theo, mà còn từ đó phản ánh và biểu hiện tính cách của bản thân họ.
Trong văn hóa Trung Hoa truyền thống, tranh về trúc đã đạt tới trình độ nghệ thuật hiện thực và tự do.
Những họa gia vẽ trúc đã đưa chúng đến đỉnh cao của nghệ thuật, giữ một vị trí rất quan trọng trong lịch sử hội họa Trung Hoa.
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch