VĂN HÓA-ĐỜI SỐNG- KỸ NĂNG SỐNG ĐẸP

Tinh túy truyền thống: Đọc Hoa Nam kinh để ngẫm về cuộc sống tự tại tiêu dao

Tinh túy truyền thống: Đọc Hoa Nam kinh để ngẫm về cuộc sống tự tại tiêu dao

Trong cuốn sách kinh điển có tên gọi là Nam Hoa kinh do Trang Tử viết từ thời Chiến Quốc có ẩn chứa rất nhiều những triết lí thâm sâu mà người đời sau mãi mãi luận bàn.
Đó không chỉ là áng văn chương thể hiện tài năng nghệ thuật mà đọc Nam Hoa kinh ta hiểu cách cân bằng cuộc sống để tâm thân thanh thản, cân bằng được tinh thần và lạc quan hơn.
Nam Hoa kinh được coi là một kho tàng kiến thức kinh điển chứa đựng triết thuyết thâm sâu và uyên bác ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng và đời sống của người Trung Hoa.
Nam Hoa kinh trải qua những niên đại lịch sử đã vươn tầm ảnh hưởng của mình tới rất nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu và tìm đọc.
Nhận thức khác nhau tạo nên cảnh giới tư tưởng khác nhau
Thiên đầu tiên của Nam Hoa kinh Trang Châu miêu tả hình ảnh con cá côn, con chim bằng:
‘‘Biển Bắc có con cá gọi là cá côn, mình dài không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim gọi là chim bằng, lưng rộng không biết mấy ngàn dặm, khi tung cánh bay thì cánh nó như đám mây trên trời. Biển (Bắc) động thì nó dời về biển Nam, biển Nam là Ao trời.
Tề Hài là sách ghi những chuyện quái dị.
Sách đó bảo khi con chim bằng dời xuống biển Nam, nó đập nước tung tóe lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Nó xuống biển Nam vào tháng 6, lúc gió nổi lên’’

Chim Bằng (Ảnh: Youtube.com)

Xét về góc độ văn chương thì những từ ngữ miêu tả trong đoạn văn mang tính hoa mĩ, li kì.
Nhiều ý kiến cho rằng đây là đoạn văn nói lên trí tưởng tượng phong phú và sự khôn khéo trong việc mượn vật mà nói người.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chính là loài chim phượng quý hiếm mà chỉ thấy được ở thiên giới.
Vậy tại sao ông có thể miêu tả về nó như thể ông biết rõ nó?
Phải chăng những gì ông thấy không phải cảnh giới của người bình thường. Mắt có thể thấy được thiên giới thì đó có phải là cao nhân?
Lối sử dụng từ ngữ và sự khéo léo trong hành văn đã giúp người ta như ngầm hiểu về những gì mà ông muốn truyền đạt.
Ông mô tả những khả năng và sức mạnh của chúng là vô cùng phi thường, và vô cùng mĩ diệu.
Thế nhưng:
‘‘Con ve sầu và con chim cưu cười con chim bằng rằng: “Chúng tao bay vù lên cây du, cây phương có lúc bay không tới mà rớt xuống đất. Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam?”
Con ve sầu và con chim cưu chẳng thể bay được như con chim bằng, thì nó chê cười con chim bằng ‘‘Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam’’, đó chính là bay về ao trời.
Câu này chính là sự phản ánh rất rõ dụng ý của Trang Tử về vấn đề đố kị, ghen ghét trong cuộc sống.
Ở xã hội con người thường xảy ra mâu thuẫn, thấy người làm được việc mà bản thân mình không thể làm được liền đem tâm ganh ghét mà gièm pha, nhạo báng.
Thế nhưng có một quy luật mà Trang Tử ngầm chỉ đó là: con người sinh ra là có sự khác nhau, và sự khác nhau về nhận thức sẽ dẫn tới sự khác nhau về tư tưởng cảnh giới tinh thần.
Điều này hoàn toàn trái ngược với luận thuyết mà một số quan điểm cho rằng: con người sinh ra ai cũng như ai, cái thuyết gọi là bình quân tuyệt đối đó đã làm cho con người hiểu rằng, con người cơ bản là ai cũng giống nhau nên họ phủ nhận sự tồn tại của nhân quả, không tin vào thiện ác hữu báo, từ đó mà tranh mà đấu, tạo bao nhiêu nghiệp báo trong đời.
Để rồi cuộc sống của họ là bất an và đau khổ cho tới khi ác nghiệp quá nhiều thì tự hủy hoại bản thân.
Sự phản ánh rõ nét nhất về khác biệt tầng thứ tư tưởng được viết như sau:
Nước không sâu thì không chở được thuyền lớn. Đổ một chén nước xuống một chỗ lõm ở trước sân thì thả một cọng cỏ xuống làm thuyền được; nếu thả cái chén đó xuống thì chén chạm đất, không nổi được, vì nước nông mà thuyền lớn.
Lớp không khí mà không dày thì không đỡ được những cánh chim lớn. Cho nên con chim bằng phải bay lên cao chin vạn dặm để có lớp không khí dày đỡ nó ở dưới, rồi lưng nó mới đội trời xanh, không hề bị cản trở, mà bay xuống biển Nam được.

(Ảnh: Pinterest)

….
Trí lực nhỏ không thể so sánh với trí lực lớn; cuộc đời ngắn không thể so sánh được với cuộc đời dài. Làm sao biết được điều ấy?
Như cây nấm chỉ sống một buổi sáng thì không biết được trọn một ngày, con huệ cô (một loại ve sầu, sinh mùa xuân thì mùa hè chết, sinh mùa hè thì mùa thu chết), không biết được trọn một năm; đó là những loài cuộc đời ngắn ngủi.
Ở miền Nam nước Sở, có một con rùa thiêng, mùa xuân của nó dài năm trăm năm; mùa thu dài năm trăm năm; đời thượng cổ có một cây “xuân” lớn, mà mùa xuân dài tới tám ngàn năm, mùa thu dài cũng tám ngàn năm, đó là những loài cuộc đời lâu dài.
Ông Bành Tổ (chỉ sống bảy trăm năm) mà ngày nay hễ nói tới thọ, ai cũng cho ông bậc nhất, chẳng đáng buồn ư?
Trang Tử cũng nói tới việc không thể dùng nhận thức nông cạn của con người mà lí giải sự việc theo định kiến cá nhân.
Và việc con người phong bế hiểu biết của mình trong phạm vi hạn hẹp chẳng khác gì ếch ngồi đáy giếng.
Nhận thức về cuộc sống nhân sinh quan là rộng lớn, trí tuệ con người là nhỏ bé cho nên nếu như con người cứ mãi ôm cứng cái lí nông cạn của mình thì vĩnh viễn không bao giờ khơi mở được những điều mới mẻ, rộng lớn bác đại tinh thâm.
Cũng giống như khoa học của nhân loại, chỉ nghiên cứu những gì đã xảy ra còn những gì vẫn tồn tại và phản ánh hết sức hiện thực, khách quan mà họ chưa thể nhận thức được thì cho đó là viễn tưởng.
Phải chăng đó chính là sự nông cạn và hạn hẹp của kiến thức mà con người gọi đó là khoa học?
Khi con người vứt bỏ hết thảy những tâm tưởng xấu tệ, quay trở về bản tính thuần thiện thánh khiết nguyên sơ của con người thì họ cũng nhận thức và nhìn thấy được những điều vi diệu vô cùng mà khoa học vẫn không thể nghiên cứu tới.
Như vậy luận điểm mà Trang tử đưa ra chính là sự mênh mông bao la trong kiến thức ở từng tầng từng tầng của vạn vật.
Con người không thể kiến giải được hết thảy mọi sự việc trừ khi họ bước trên con đường tu luyện quay trở về với bản tính nguyên lai của con người.
Do năng lực và nhận thức của con người là hữu hạn trong cuộc đời mà chẳng được thanh thản, tiêu diêu
Trang Tử cho rằng: con người dẫu nắm rất rõ quy luật cuộc đời, sống rất bình thản mặc cho khen chê thế gian, có nắm thấu triệt được cái lí ở đời thì cũng chỉ là một người có đủ nhận thức và sự thanh thản đó không thoát khỏi người thường.
Muốn đạt được cao hơn như thế, trở thành một bậc đại giác thì phải biết thích nghi với vạn vật.

(Ảnh: Youtube.com)

Thấu hiểu được pháp lí rộng lớn đang khống chế sự tồn tại của diễn hóa vạn vật trong vũ trụ.
Ông Vinh tử nước Tống cười họ. Dù cả nước khen ông, ông cũng không mừng, cả nước chê ông, ông cũng không buồn, vì ông biết phân biệt nội và ngoại, vinh và nhục.
Người như ông thật hiếm ở đời, nhưng ông chỉ biết tự thủ (tự giữ mình) thôi, chứ chưa tự thích nghi với vật mà thành bậc đại
Xét ở góc độ xã hội của con người, có luận điểm cho rằng, sở hữu những kiến thức trong xã hội người thường, trở thành những chuyên gia tiếng tăm ở đời đó là điều tốt đẹp tuyệt đối. Tuy nhiên đó có phần hạn hẹp.
Bởi kiến thức là vô biên, vũ trụ là rộng lớn chút đỉnh kiến thức nơi xã hội của con người quá ư nhỏ bé, nó không thể giúp con người nhận biết được chân lí tối hậu của vũ trụ.
Trang tử cũng ngụ ý cho việc phải biết thuận theo thiên tính của vạn vật. Tức biết dung hòa và nắm chắc được bản chất thực sự của vật.
Từ đó mà hiểu và thuận theo chiều hướng đó mà không đi ngược lại quy luật tự nhiên.
Hạnh phúc có được khi ta thực sự tự do
Trang tử viết: Ông Liệt tử cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về.
Có phúc lớn như ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì .
Liệt tử đi mây về gió, người đời nhìn thấy mà nể phục, mong muốn được như ông.
Ấy vậy mà đó cũng đâu phải là tự do thực sự, bởi lẽ nếu chẳng có gió thì Liệt tử chẳng thể bay.
Cái trạng thái nhẹ nhàng, khoan khoái của ông lại bị phụ thuộc vào gió.
Vậy cái gốc của hạnh phúc là tự do, và tự do chính là sự thoát khỏi khống chế ràng buộc bởi những nhân tố khác.
Con người vì đâu mà thấy khổ? trước tiên vì phải mang theo cái thân xác thịt nặng nề này, không tắm thì bốc mùi khó chịu.
Vì cái thân xác này mà luôn phải tranh giành, đấu đá. Danh- lợi-tình cũng từ cung phục cái thân xác này mà phải khổ cực tâm thân.

Hạnh phúc thực sự là khi con người có sự tự do thực sự. (Ảnh: WordPress.com)

Vậy tự do mà Trang tử đề cập tới chính là con người cần phải thoát khỏi sự ràng buộc và khống chế bởi những chủng tâm mà khiến con người quá coi trọng bản thân, tự tư tự lợi thôi thúc làm những việc bất hảo.
Phải coi nhẹ bản thân, coi nhẹ thảy mọi dục vọng chấp trước, dần buông xả nó để thoát khỏi sự ràng buộc đó mà trở nên thanh thản nhẹ nhàng, tự do khoáng đạt.
Giống như trong đoạn:
Đến như hạng người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên, thì còn tùy thuộc cái gì nữa đâu?
Cho nên người ta bảo “Bậc chí nhân (có đức tuyệt cao) thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh”.
Trang tử cũng đưa ra những cảnh giới cao hơn cũng có sự phân biệt về tầng thứ. Khi con người thoát khỏi trạng thái ràng buộc phụ thuộc của người thường từ tâm thân thì sẽ tiến nhập vào trạng thái siêu thường.
Tầm mắt mở mang, trí huệ được vun bồi. Nhưng cũng chưa thể khám phá thấu triệt vũ trụ vô biên vô tế.
Ông cũng đưa ra chìa khóa để mở cánh cửa của đột phá tầng thứ trong vũ trụ chính là Đức.
Đức là những gì mà con người có được khi họ làm việc thiện, trong cuộc sống chịu khổ, chịu thiệt thòi về lợi ích cá nhân mà có được.
Nhưng Đức có được phải đạt điều kiện là vô vi. Tức là làm việc tốt vì người mà không lưu danh, không kể thưởng. Hoàn toàn xuất phát từ từ bi mà làm, không truy cầu mục đích và được- mất.
Có thể thấy rằng qua chương đầu của Nam Hoa kinh, Trang tử đã truyền tải những thông điệp hàm ý thâm sâu để từ đó đưa ra luận điểm giúp con người hiểu về nguyên gốc của sự tự do tự tại trong đời người.
Muốn tìm được hạnh phúc thực sự của mình trước tiên con người phải biết thuận theo thiên tính của vạn vật, mở mang trí huệ dung bồi kiến thức để hiểu được quy luật của vạn vật.
Mặt khác phải thoát khỏi sự ràng buộc bởi những dục vọng chấp trước thì mới đạt tới trạng thái tự do và hơn thế nữa là tâm thái phải đạt được vô vi để có thể tiến nhập sâu hơn, cao hơn trong tiến trình khám phá bí ẩn sinh mệnh và vũ trụ.
Nàng Lệ Cơ là con gái viên quan giữ biên giới ở đất Ngải.
Khi vua Hiến Tông nước Tấn đón nàng về cung, nàng khóc tới uớt đẫm vạt áo, nhưng về tới hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm cao lương mĩ vị, nàng hối hận giọt lệ ngày xưa.
Vậy làm sao tôi biết được khi chết rồi, người ta lại không ân hận rằng trước kia ham sống?
Mọi vật đều biến đổi không ngừng, có khi lúc này ta cho là tốt nhưng một lúc nào đó nó lại là sai.
Nói người giàu là sướng chưa hẳn đã là tốt và nói người nghèo khổ kia là khổ cũng chưa hẳn đã là họ khổ, bởi tính tương đối và các tầng thứ biến thiên của sự việc là khác nhau. Mức độ đánh giá cũng khác nhau.
Nàng Lệ Cơ khi phải xa cha mẹ thì khóc mướt, nhưng về nhà chồng rồi, lại thấy sung sướng mà ân hận rằng trước kia đã khóc.
Cho nên chỉ người phàm mới lao tâm khổ tứ vì thị phi, còn thánh nhân thì thấu hiểu bản chất và cái quan hệ nhân duyên sâu xa phía sau, bậc giác giả thì tận thấu đạo lí của từng tầng không gian vũ trụ mà coi nhẹ hết thảy.
Đời con người như mộng ảo, chớp mắt qua đi một kiếp người
Vạn vật không ngừng biến đổi, con người cũng nằm trong cái guồng biến đổi không ngừng nghỉ của tạo hóa. Trang tử cho rằng:
‘‘Có người nằm mộng thấy được uống rượu ăn tiệc, tỉnh dậy tiếc mà khóc; lại có người nằm mộng thấy mình khóc rồi thức vậy vui như đi săn. Mà hai hạng người đó trong khi nằm mộng không biết rằng mình nằm mộng, đôi khi nằm mộng thấy rằng mình nằm mộng, tới khi tỉnh mới biết rằng mình nằm mộng.
Và chỉ khi nào đại giác (tỉnh lớn) mới biết rằng đã qua một “đại mộng” (giấc mộng lớn). Bọn ngu tự cho mình là tỉnh khi coi vua là quý, còn kẻ chăn trâu là hèn. Thật là cố chấp!

(Ảnh: Pinterest.com)

Khổng Khâu với anh đều là nằm mộng hết. Mà tôi bảo anh là nằm mộng, thì chính tôi cũng nằm mộng nữa.
Những lời đó người thường cho là quái dị, nhưng một vạn năm về sau sẽ có một đại thánh nhân hiểu được. Thời gian đó không dài gì chỉ như từ sáng tới chiều thôi’’
Hay ngay cả bản thân Trang Chu cũng mộng, ông mộng hóa bướm hay bướm mộng thấy nó hóa Trang Chu, Trường Ngô tử bảo bạn là Cồ Thước: đời chỉ là giấc mộng lớn.
Quả thực là như vậy, đời con người chỉ là một giấc mộng.
Vậy cớ chi mà ta tự tạo cho mình cơn ác mộng. Khi lao vào vòng xoáy của đời mà tranh đấu thiệt hơn, vì cái đúng cái sai mà thị phi buồn khổ. Vậy tại sao không dệt mộng bình thường.
Và Trang Chu đã giảng: “Cho nên thánh nhân dung hoà, coi thị phi là một, mà theo luật tự nhiên’’.
Phải chăng con người muốn bình thản và tự tại hơn trong cuộc sống thì phải biết dung hòa với mọi sự.
Ở đây ông cũng đưa ra một dự ngôn về sự xuất hiện một đại thánh nhân sau một vạn năm kể từ thời của ông.
Người đó sẽ hiểu tận thấu được sự vô biên vô tế.
Vị đại thánh nhân đó sẽ mở con đường thoát mê cho nhân loại, truyền pháp mà ai đắc được đều là người chân chính tỉnh mộng mà nắm được chân pháp tối hậu của vũ trụ.
Phải chăng bản thân Trang Chu lúc này có phần hối tiếc vì sự xuất hiện của vị đại thánh nhân ấy không nằm trong thời của ông, nên ông ngỡ tưởng rằng mình là tỉnh nhưng thực chất cũng là mê trong cái mê của vĩnh hằng.
“Thánh nhân bỏ thành kiến đi để theo lẽ trung dung”
Ông đưa ra chuẩn mực để trở thành một bậc thánh nhân, trước tiên phải vứt bỏ được cái bản ngã của chính mình, những định kiến và những quan điểm cá nhân của mình.
Sau đó trong đời sống phải chân chính phân biệt được thị phi nhân ngã, dung hòa hết thảy với vạn vật, thừa nhận sự tồn tại của lí tương sinh tương khắc mà trung dung với nó, tự nhiên đạt được sự tự tại thong dong.
Tranh đấu và mâu thuẫn không giải quyết được vấn đề
Tranh đấu chỉ làm tăng thêm sự phức tạp và bài xích.
Trang tử lấy lí giải về vũ trụ ở tiểu thiên 9:
“Xưa mười mặt trời cùng xuất hiện, chiếu sáng vạn vật. Sự chiếu sáng của đạo đức không hơn sự chiếu sáng của mặt trời ư?.
Từ đây ông ngầm đưa ra cho chúng ta bài học: không nên tranh biện thắng thua.
Bởi biện luận của người này, người kia cũng chỉ là một góc nhìn của cá nhân đó. Hoàn toàn là thấy được một khía cạnh của sự tình mà chẳng thấy được bao quát nó là gì.
Ông cho rằng:
‘‘Đạo không có giới hạn mà ngôn ngữ thì không chắc chắn. Đạo thì không phân biệt cái này cái kia, do ngôn ngữ mới có sự phân biệt. Nhưng sau mỗi cái phân biệt, có một cái gì không phân biệt được, sau mỗi cái biện luận, có một cái gì không biện luận được’’.

(Ảnh: Wikipedia.org)

Vậy cớ chi mà ta đi tranh biện, phải chăng trong tâm muốn thắng người. Đây có phải là sự tranh đấu mà mệt tâm khổ sức không?
Trong tranh biện khi bất đồng quan điểm liền bài xích nhau, rèm pha nhau, tạo thi phi để rồi lại tự cuốn mình vào trong cái mớ tơ vò do tự mình tạo ra mà lại không hiểu được rằng không thể thắng ai bằng cách đó được.
Hai bên đều đưa thiên kiến của mình ra mà không chịu nghe lí luận của người kia, tự mình đang phong bế và hạn cuộc suy nghĩ của mình trong cái khuôn do mình tự vạch, thì cuộc tranh biện đó có khác chi là tranh biện với người điếc?
Trong cuộc tranh luận đôi khi lời nói của một người nào đó làm cho người kia không nói lại, đó cũng không phải là đã biết được thắng thua hay đúng sai.
Ông viết:
‘‘Giả sử tôi tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định là tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có một người phải, một người trái?
Hay cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi thì người này do lẽ cùng ý kiến với tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh, hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa không’’
Ở đây ông đưa ra việc tranh biện hay đấu tranh đúng sai thiệt hơn trong cuộc sống không giải quyết được vấn đề mà chỉ làm cho chân lí bị mờ đi bởi những kiến giải nhỏ bé cá nhân.
Nên ông nói:
Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp, lời nói bị sự hoa mĩ, phù phiếm che lấp. Do đó mà phái Nho, phái Mặc tranh biện với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. “Đừng chống đối nữa, đó là cái “chốt” của Đạo. Cái chốt đó ở trung tâm cho nên ứng với các biến hoá vô cùng”.
Ở thiên này Trang tử đưa ra rất nhiều luận điểm cùng với những lí giải rất sâu sắc. Ông nói từ lớn tới nhỏ, từ vũ trụ mà nói tới con người.
Rồi cách nhìn nhận của ông từ cao xuống thấp.
Để rồi cuối cùng ông đưa ra luận điểm: Đại Đạo là vô hình mà vạn sự vạn vật lại nằm trong Đạo, bởi vậy mà có biến hóa không ngừng, vậy cớ chi mà tranh đấu, biện luận để rồi bài xích và tự mang định kiến cá nhân hạn hẹp mà lí giải cho Đại Đạo rộng lớn mênh mông.
Khi con người hiểu được gốc rễ sâu xa sự hình thành và biến hóa của vạn sự vạn vật thì lúc đó con người đang nằm trong Đạo mà nhìn.

Xét tới nhân loại thời hiện đại thì thấy rằng, ngày nay con người đang bị khoa học đóng khung nhận thức của mình.
Hễ có sự tình gì liền đem khoa học ra giải thích, giải thích không được thì gọi nó là yếu tố thần học
Cái gì đang hạn cuộc trí tuệ con người? phải chăng là do tâm Đạo của con người đang bị chính những tư tưởng định kiến bài xích mà tự mình làm mình mê trong cái mê mà không chịu tỉnh?
Câu hỏi đó cứ mãi còn để ngỏ.

Tịnh Tâm

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0914-098-111