Vì sao Nguyễn Trãi viết “Ngô” thay cho “Minh” trong “Bình Ngô đại cáo”
Vì sao Nguyễn Trãi viết “Ngô” thay cho “Minh” trong “Bình Ngô đại cáo”
Võ Hữu Lộc
Sau hơn 20 năm đô hộ của Nhà Minh, năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” lãnh đạo, đã làm nhà Minh vong triều trên đất Việt. Lê Lợi lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê và giao cho Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” tổng kết những vết loang máu, mồ hôi, nước mắt của dân tộc Việt trong trong chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ở Việt Nam và Trung Quốc bao triều đại phong kiến kế nối theo một quy luật tất yếu “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần mở mang dựng nước; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đứng vững một phương”. Về cơ bản bộ máy nhà nước phong kiến gần như giống nhau hình thức tổ chức, hoạt động, thiết chế quyền lực từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên việc đặt tên triều đại thì hoàn toàn khác nhau bởi “Núi sông bờ cõi đã riêng, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Ở Việt Nam, người khai quốc lấy họ của mình đặt tên triều đại, năm 938 Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán, lập ra nhà Ngô xây dựng nền độc lập tự chủ, tiếp nối là nhà Đinh (968-980), Lê Đại Hành lập ra nhà Lê (Tiền Lê 981-1009), Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý (1010-1225), Trần Cảnh ông vua mở đầu của vương triều Trần (1226-1400), nhà Hồ (1400-1407). Từ sau 1407 nước ta rơi vào ách thống trị của nhà Minh.
Ở phương Bắc nước ta (được hiểu là Trung Quốc), các vương triều khi thành lập thì thường đặt tên theo lối “chiết tự” hoặc mang hàm ý sâu xa khác của từ ngữ, bởi chữ viết của họ xuất phát từ tượng hình, ví như Tần Doanh Chính lập ra nhà Tần năm 221 Trước Công Nguyên, xưng là Thủy Hoàng đế 始皇帝 hay Tần Thủy Hoàng nghĩa là: Vua đầu tiên của triều đại đầu tiên trong chế độ phong kiến tập quyền Trung Quốc; tiếp đến Lưu Bang lập ra nhà Hán 漢 vào năm 206 TCN, chữ Hán là tên Cộng đồng tộc người nhiều nhất ở Trung Quốc; nhà Đường 唐 do Lý Uyên lập ra năm 618, có nghĩa là ngôi nhà lớn; nhà Tống 宋 do Triệu Khuông Dẫn lập ra từ năm 980, chiết tự chữ là chữ miên (mái nhà) che chữ mộc (cây) hiểu rộng vấn đề hơn chữ Tống có nghĩa là mái nhà che cây lớn. Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh 明 năm 1368 (chữ minh gồm nhật và nguyệt) có nghĩa là ánh sáng, hào quang. Nhà Minh do Chu Nguyên Chương lập ra năm 1368 đến năm 1643 gồm 12 đời qua 16 vua, trong lịch sử thường gọi là nhà Ngô.
Sở dĩ Nguyễn Trãi thay từ “Bình Ngô” bằng “Bình Minh” là ẩn ý trong đó, bởi người biết giữ thể diện cho người khác mới là người toàn thắng, hơn nữa vì sự bang giao hòa hiếu về sau giữa Đại Minh và Đại Việt vì thế mềm hóa ngôn ngữ là cần thiết.
Thứ nhất: Trong cuốn Mười Hoàng đại đế trung Quốc; Lưu Huy chủ biên – NXB Văn học do Phong Đảo biên dịch, tái bản lần 3 ngày 24/3/2010 ghi rõ: “Khi mới lên ngôi (1368) Chu Nguyên Chương tự xưng là Ngô vương; đến năm 1367 Chu Nguyên Chương đổi niên hiệu là Ngô nguyên niên” (trang 701, 707).
Thứ hai: Sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước của Nguyễn Lương Bích – NXB Quân đội Nhân dân, xuất bản ngày 18/4/1973, bản nguyên âm chữ hán trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã ghi rõ là Minh
“… Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn;
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc;
Hân thương sinh ư ngược diễm, hãm xích tử ư họa khanh…”,
Bản dịch của Nguyễn Lương Bích
“…Gần đây, nhân họ Hồ chính sự phiền hà;
Khiến trong nước nhân dân oán hận;
Quân cuồng Minh thừa dịp hại dân;
Đảng ngụy gian manh tâm bán nước;
Nướng dân đen trên lò bạo ngược;
Vùi con đỏ dưới hố tai ương…” (trang 636, 637).
Cùng theo tư liệu trên thì phần chú giải trang 664 ghi rõ: “Ngô tức Minh, Chu Nguyên Chương là vua đầu nhà Minh đã nổi lên ở đất Ngô, sau khi diệt nhà Nguyên đóng đô ở Kim Lăng (vùng đồng bằng sông Dương Tử) là đất Ngô cũ, cho nên nhà Minh cũng gọi là nhà Ngô, nước Minh gọi là nước Ngô, quân Minh là quân Ngô”.
Thứ ba: Trong cuốn Minh thực lục – Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc thế kỷ XIV – XVI, của nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, NXB Hà Nội 2019, có ghi: “Thời Tam Quốc (Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô), thì vùng đồng bằng sông Dương Tử được gọi vùng Đông Ngô hay gọi là Tôn Ngô vương (đất của Tôn Quyền)”, nhằm phân biệt với các tên tương tự có từ trước ở phương Bắc, như tiểu quốc Ngô thời Xuân – Thu. Sau khi lập vương triều Chu Nguyên Chương đóng đô ở đất của Tôn Quyền nên ông xưng là “Ngô vương”.
Như vậy Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”, ý tứ rõ ràng người đương thời hiểu rõ “nhà Ngô” đó là tên của triều đại nhà Minh (1368-1644). Với cách nhìn nhận của Nguyễn Trãi các vùng quốc gia lân cận là láng giềng muôn đời không thể khác, có khi vui, lúc buồn, lúc nóng giận, trầm lặng đắn đo luôn nghĩ về lợi ích tối thượng, vì sự an yên cho bao cộng đồng dân tộc “sơn xuyên dị vực, phong nguyệt đồng thiên!”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá văn tài Bình Ngô đại cáo: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị là cứu nước, cứu dân, nội trị, ngoại giao; mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu”. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc – Phạm Văn Đồng (Báo Nhân Dân số 3099, ngày 19/9/1962).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Minh thực lục – Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc thế kỷ XIV – XVI; Phạm Hoàng Quân, NXB Hà Nội 2019.
- Những mẩu chuyện lịch sử nổi tiếng Trung Quốc: MƯỜI ĐẠI HOÀNG ĐẾ TRUNG QUỐC, Lưu Huy chủ biên – NXB Văn học do Phong Đảo biên dịch, tái bản lần 3 ngày 24/3/2010.
- Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước – Nguyễn Lương Bích, NXB QĐND 1973.
- Tân từ điển Hán –Việt; Nguyễn Quốc Hùng – in tại Phương Nam Ấn quán 5, Gia Định 12/4/1975.
- Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc – Phạm Văn Đồng (Báo Nhân Dân số 3099, ngày 19/9/1962).