Đạo giáo Việt Nam
Đạo giáo Việt Nam
Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của Đạo giáo Việt Nam
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2.
Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn.
Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng.
Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma.
Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang.
Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam.
Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng “cưỡi diều tìm long mạch” để triệt nguồn nhân tài Việt Nam.
Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới.
Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân.
Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ.
Dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư: nên có chức đạo quan và tăng quan.
Tương truyền vua Đinh Tiên Hoàng từng lấy lễ thầy trò để tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái vốn là Mộc tinh ở cây chiên đàn lâu năm.
Đời nhà Lý các đạo sĩ Trần Tuệ Long và Trịnh Trí Không giữ địa vị quan trọng trong triều.
Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ 17, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư.
Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Toàn dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi.
Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ “Nội Đạo Tràng”.
Ba người con trai của ông được tôn là “Tam Thánh”.
Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ 20 hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội.
Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên.
Giới sĩ phu xưa thường cùng nhau tổ chức cầu Tiên để hỏi về vận nước, chuyện kiết hung đại sự…
Nhiều đàn cầu Tiên nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)… Đầu thế kỷ 20, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn) mọc lên khắp nơi.
Kinh sách của Đạo giáo được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền tụng, ngoài 2 quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử, còn có quyển Huỳnh Đình Kinhdạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát.
Tất cả tương truyền là do Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ dạy từ xưa bên TTrung Quốc.
Đặc biệt, Đạo giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc.
Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo dòng lịch sử, chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ,… với cuộc sống “tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn” của học thuyết Lão Trang.
Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cả Đạo quan.
Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ.
Đặc điểm của Đạo giáo Việt Nam
Tính tổng hợp
Tổng hợp là một đặc điểm quan trọng của tín ngưỡng truyền thống nên giống như các tôn giáo khác khi du nhập vào Việt Nam, Đạo giáo bị hòa trộn với tín ngưỡng truyền thống.
Đối với Đạo giáo thì rất đặc biệt, Đạo giáo phù thủy rất tương đồng với tín ngưỡng ma thuật nên sự hòa trộn xảy ra rất mãnh liệt đến không thể phân biệt nổi đâu là Đạo giáo, đâu là tín ngưỡng.
Rất nhiều nhà nghiên cứu quy hết cho mọi tín ngưỡng Việt Nam là Đạo giáo, còn đối với người dân thích đồng bóng, bùa chú,… thì lại không biết Đạo giáo là gì.
Đạo giáo còn hòa trộn với các tôn giáo khác như Phật giáo.
Chử Đồng Tử là người vừa tu đắc đạo thành Phật, vừa được coi là tổ sư của Đạo giáo Việt Nam.
Đạo giáo còn ảnh hưởng đến các nhà Nho, các nhà nho khi gặp chuyện bất bình trong chốn quan trường thì hay lui về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên, sống cuộc sống an bình thanh thản, đó là các tu của Đạo giáo.
Các nhà Nho còn tổ chức phụ tiên (cầu tiên) để hỏi trời đất về chuyện thời thế, tốt, xấu,…
Nhiều đàn phụ tiên nổi tiếng như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên),…
Nhiều nhà Nho còn lập đàn phụng tiên ngay tại tư gia và nơi làm việc như Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền.
Tính linh hoạt và âm dương hòa hợp
Sau tính tổng hợp là tính linh hoạt và âm dương hòa hợp là những đặc tính của Đạo giáo Việt Nam.
Đạo giáo thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình.
Câu tục ngữ, “Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ” là để chỉ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa).
Việc thờ đức Thánh Trần với tam phủ và tứ phủ đi liền với tín ngưỡng đồng bóng.
Ngoài ra Đạo giáo Việt Nam còn thờ các vị thần khác như: Tam Bành, Độc Cước, Huyền Đàn,…
Đạo giáo chủ trương không tham gia vào đời sống xã hội (xuất thế) nhưng khi vào đến Việt Nam thì Đạo giáo còn được dùng làm vũ khí chống áp bức (nhập thế). Ví dụ, đời Hồ Quý Ly, có Trần Đức Huy dùng pháp thuật để thu hút đông đảo người theo chống lại triều đình sau đó bị dẹp.
Ảnh hưởng từ thời Bắc thuộc
Vị đô hộ sứ đầu tiên được ghi chép về việc đưa tri thức và văn hóa Trung Nguyên vào Giao Chỉ (miền Bắc Việt Nam) là Sĩ Nhiếp (137 – 226).
Ông được các vị vua sau này của Đại Việt phong là Nam Giao học tổ.
Thuở còn sống, ông được nhà Hán phong là Long Độ đình hầu, đây có thể là gốc tích của tên “thần Long Đỗ”, vị thành hoàng kinh thành Thăng Long (Chữ “Độ” bị đọc chệch thành “Đỗ” do kị húy ).
Khi Giao Chỉ nằm dưới quyền Đông Ngô, Tôn Quyền lại phong cho Sĩ Nhiếp là Long Biên hầu.
Thời Sĩ Nhiếp cai trị Giao Châu, Trung Quốc đang trong cuộc biến loạn Tam Quốc, khoảng thời gian bùng phát của Thái Bình Đạo tức tiền thân của Đạo giáo.
Sĩ Nhiếp là một danh sĩ Nho giáo chuyên về Xuân Thu Tả truyện, là người truyền bá Nho học vào Giao Chỉ, đóng đô ở Luy Lâu (Bắc Ninh) và cho phép các nhà sư Phật giáo truyền đạo nhưng truyền thuyết về cái chết của ông lại liên quan đến Đạo giáo.
Tương truyền rằng Sĩ Nhiếp ốm đã chêt đi 3 ngày thì được một đạo sĩ là Đổng Phụng cho viên thuốc hòa vào nước ngậm, nhờ thế mà hồi phục trở lại.
Việc này được ghi trong Liệt Tiên truyện .
Chi tiết này xét về mặt y học có thể xảy ra, còn có thực sự liên quan đến các phép thuật của Đạo giáo hay không thì không rõ, nhưng có khả năng Đạo giáo đã có mặt ở Việt Nam từ thời Sĩ Nhiếp.
Điều này được lưu lại do phát ngôn của Tôn Sách, tiên chủ của Đông Ngô:
“Trước kia người quận Nam Dương là Trương Tân làm Thứ sử Giao Châu (tức miền Bắc Việt Nam hiện nay), vứt bỏ điển huấn của thánh hiền ngày trước, phế bỏ pháp luật của nhà Hán, thường buộc khăn đỏ che búi tóc, đánh trống gẩy đàn đốt nhang, đọc sách đạo tà tục, nói là để trợ giúp giáo hóa, rút cục bị người Di phương nam giết chết.” .
Qua lời thuật lại của Tôn Sách thì Trương Tân hẳn phải làm Thứ sử Giao Châu trước Sĩ Nhiếp, cũng khó chắc chắn rằng Trương Tân là tín đồ của Thái Bình đạo, phương thuật hay vu thuật.
Nhưng sách Đạo Tạng Kinh, sách kinh điển của Đạo giáo cho biết: “Sau khi vua Hán Linh Đế (168 – 189) băng hà, xã hội Trung Hoa rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là tạm yên ổn. Người phương Bắc sang lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sỹ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”.
Dấu vết rõ nét đầu tiên của Đạo giáo ở Việt Nam là dưới thời Đường Minh Hoàng, khi Thứ sử Giao Châu có tên là Lưu Hướng cho xây đền Quán La ở động Già La (Tức khu vực Xuân La ngày nay).
Đền Quán La vốn là đền thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, có tên thời bấy giờ là quán Khai Nguyên .
Đến thời Trần Hiến Tông vẫn có đạo sĩ tu luyện tại đây.
Chỉ đến thời Trần Dụ Tông mới có nhà sư trùng tu đạo quán thành chùa, lấy tên là An Dưỡng tự.
Câu chuyện liên quan đến đền và đình Quán La cũng rất ly kỳ bởi người ta tìm thấy một mộ táng thời Hán được xây dựng rất công phu, bao gồm cả phòng chứa đồ tùy táng và chứa quan quách, cùng một hệ thống đường hầm phức tạp.
Hiện nay, quy mô thực sự của huyệt đạo vẫn chưa được xác định rõ ràng dù hầm mộ đã được khai quật từ sớm.
Do thần phả của đình Quán La bị thất lạc nên không rõ chủ nhân của ngôi mộ là ai . Gò xây đền và đình Quán La được gọi là gò Thất Diệu, tức ám chỉ Thất tinh trong chòm sao Bắc Đẩu, các phong thủy gia thường dựa trên đó để xác định thế đất tốt.
Như vậy, khu vực Quán La không chỉ lưu giữ các dấu vết của Đạo giáo mà có thể trước đó đã có dấu vết của tín ngưỡng phong thủy.
Cao Biền, viên quan cai trị nổi tiếng nhất ở Giao Châu được ghi nhận trong lịch sử và truyền thuyết gắn liền với các câu chuyện trấn yểm.
Cao Biền đã dùng thủ thuật gì để trấn yểm hoặc cải tạo các vùng đất ở Giao Châu và Cửu Chân (Bắc bộ và Bắc trung bộ) thì không rõ, cũng không thấy ghi chép nào khẳng định Cao Biền là tín đồ của Đạo giáo, nhưng mối liên hệ giữa thuật phong thủy với các phương sĩ, đạo sĩ là có cơ sở.
Dựa trên dấu vết của đô hộ phủ thời Đường, ta có thể thấy rằng chính trong thời Đường này, Đạo giáo và những quan niệm tín ngưỡng của văn hóa Trung Hoa đã xâm nhập mạnh vào miền Bắc Việt Nam.
Truyền thuyết về Lý Nam Đế còn lưu lại một câu chuyện gắn với bùa phép.
Tương truyền rằng hai người con gái của Lý Nam Đế đấu phép với một con hồ ly tinh ở khu vực Trích Sài, hồ Tây, Hà Nội ngày nay.
Họ đấu thua nhưng được một nữ phù thủy họ Ma hướng dẫn đạo thuật trừ hồ ly.
Không có tài liệu ghi chép đạo thuật mà nữ phù thủy họ Ma này hướng dẫn cụ thể là gì nhưng ngôi đền thờ nữ phù thủy và hai cô công chúa nọ có tên là đền Phúc Lộc Thọ. Phúc Lộc Thọ chính là tên của Tam tinh trong quan niệm tiên đạo.
Vị nữ phù thủy họ Ma tương truyền cũng chính là hóa thân của Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu, vị thần tiên quan trọng nhất của Đạo giáo Trung Hoa.
Sau này, vua Lê Thánh Tông xây chùa Thiên Niên trên nền đất khu vực này.
Sự tích liên quan đến đền Phúc Lộc Thọ còn được ghi lại trên bài bia ký của chùa Thiên Niên thời vua Minh Mạng.
Mặc dù vậy, khó có thể xác thực được sự việc này bởi cuối thời Lê và trong thời Quang Trung, nhiều công trình Đạo giáo được xây dựng quanh khu vực Hồ Tây.
Như vậy, kể từ câu chuyện Tôn Sách nói về việc người Giao Châu đánh đuổi vị thứ sử học trò bùa phép cho đến sự tích con gái Lý Nam Đế đùng đạo thuật để đánh đuổi hồ ly tinh chín đuôi, Đạo giáo nói riêng và hệ thống thống tín ngưỡng của Trung Hoa nói chung đã dần dần chiếm ưu thế và đặt những nền móng vững chắc trong đời sống tâm linh cũng như chính trị ở khu vực miền Bắc.
Vị thế chính trị của Đạo giáo trong thời kỳ xây dựng nền độc lập
Nền độc lập tự chủ tại miền Bắc Việt Nam chỉ bắt đầu từ sự kiện năm 938, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
Ngay sau đó là cuộc biến loạn 12 sứ quân.
Lịch sử ghi chép về thời kỳ loạn 12 sứ quân không nhiều nên ta khó có thể biết được Đạo giáo trong thời kỳ này đã có các thay đổi ra sao.
Chỉ biết rằng khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất 12 sứ quân, lập nước Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư, đã cho mời một tăng, một đạo làm cố vấn cho triều đình.
Chế độ một tăng, một đạo cố vấn cho triều đình duy trì đến thời Lý.
Vị đạo sĩ được mời làm cố vấn cho triều đình thuộc trường phái nào của Đạo giáo thì không thấy có ghi chép lại, nhưng ở thời Lý – Trần, những cuộc loạn lạc do mê tín dị đoan, bùa phép khá phổ biến.
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại sự việc trong thời Lý có Lý Giác ở Diễn Châu học được phép thuật biến cây cỏ thành người, đã khởi binh làm loạn chống lại triều đình.
Vào thời Trần Phế Đế, năm 1379, ở Bắc Giang có Nguyễn Bổ cho là mình có nhiều phép thần, tự xưng vương, lấy hiệu Đường Lang Tử Y.
Trong thời Hồ, một cuộc khởi nghĩa liên quan đến người tu phép thần thông khác cũng bị dẹp.
Thậm chí, cho đến thế kỷ 19, tình trạng khởi nghĩa của người tu phép phù thủy cũng không dứt.
Hậu duệ nhà Mạc là Mạc Đĩnh Phúc tuyên truyền mình có phép lạ điều khiển được đạn súng đã đứng lên kêu gọi khởi nghĩa chống quân Pháp xâm lược vào năm 1895.
Đầu thế kỷ 20, còn có khởi nghĩa Trần Cao Vân (1916) và khởi nghĩa của Phan Xích Long, người sáng lập Thất Sơn Thần Quyền (1912).
Những cuộc khởi nghĩa này đều chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác ở thời Tam Quốc.
Chúng ta sẽ quay lại những cuộc khởi nghĩa của người tu đạo trong thế kỷ 20 ở bài 4, bây giờ sẽ tiếp tục với tình trạng Đạo giáo Việt Nam trong thời phong kiến.
Đến thời Lê, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong chính quyền trung ương, vị thế của Phật giáo giảm sút, thế nhưng Đạo giáo vẫn duy trì vị thế quan trọng.
Vua Lê Thánh Tông, vị thánh quân Nho giáo lại có xu hướng gần với tiên đạo hơn cả so với các vua trước ông.
“Thánh Tông di thảo”, tác phẩm tương truyền là các ghi chép của Lê Thánh Tông về các câu chuyện kỳ dị, ma quái cho thấy sự hứng thú của vị vua này với tiên đạo. Trong truyện “Gặp tiên ở hồ Dâm Đàm”, Lê Thánh Tông tỏ rõ cái nhìn ảnh hưởng của tiên đạo qua lời thoại của vị tiên nhân:
“Kìa: đài cao tàn vàng, ra thì đường tất, vào thì khua chuông, thảm lông, lầu rồng nắm quyền cương của trời mà cầm quả ấn bằng ngọc, không phải là không cao quý. Nhưng so với xe mây, ngựa hạc, sáng đón mặt trời bể khơi, chiều trông mây núi ở Vu Giáp thì đằng nào phóng khoáng hơn?
Hải vị sơn hào, đủ thức trân cam trong bốn biển, gầm trời mặt đất, ai nấy quy phục về một người, thiên hạ còn ai hơn nữa. Nhưng so với rượu ngọc chén quỳnh, ăn tinh hoa của muôn loài cây cỏ, cũng những thứ bàn đào ba ngàn năm khai hoa, ba ngàn năm kết quả, thì đằng nào quý giá hơn?
Núi non gấm vóc, ta làm chủ ông, đất sạch dòng trong, ta làm chỗ nghỉ, phàm những nơi cánh đồng loan phượng, non sông khuê bích trong bầu trời, đều có vết chân ta đi tới. Nếu so với phận định từ trời, trị vì có hạn, thì ai rộng ai hẹp, ắt thấy rõ ràng.
Huống chi lá sen làm áo, mo rụng làm mũ áo trời không phải may mà đường khâu tuyệt diệu. Thơ ngâm ngàn cuốn, ở rừng hổ báo không lo, rượu quẩy một bầu, vượt biển ba đào không sợ.
Ngâm trăng hát gió, thân rồng phượng há nhọc tinh thần, cũ đổi mới thay, chốn bồng doanh kéo dài ngày tháng.
Kìa những người nát óc nhọc thân, một ngày muôn việc, bốn cõi hoặc có nơi ngang ngạnh, một người hoặc không được đội ơn, thì trời chưa sáng đã mặc áo, bóng tới trưa mới được ăn, cải trang du hành, suốt ngày chưa xong việc, chỉ những lo nghĩ mà già. So ra ai bận ai nhà, cũng thấy rất rõ.
Được một ngày nhàn rỗi, thì dù đem ngôi vạn thặng mà đổi cũng không thiết, huống chi là bạn với thái tử, huống chi là được trao trọng quyền.”
Ở một bài thơ vịnh động Hồ Công, địa điểm có lưu giữ truyền thuyết về đạo sĩ tu đạo, Lê Thánh Tông cũng thể hiện tư tưởng vô vi ảnh hưởng từ Đạo giáo:
“Thế thượng công danh đồ thị mộng
Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn”
Nghĩa là:
“Cuộc thế công danh như giấc mộng
Bầu tiên mừng nguyệt thú vô cùng”
Tuy nhiên, trong “Thánh Tông di thảo”, các trước tác thơ ca hay sử liệu không thấy nói đến việc Lê Thánh Tông theo Đạo giáo hoặc tu đạo thuật, cũng không nhắc đến việc Lê Thánh Tông cho phép sử dụng phép thuật.
Tư tưởng Lê Thánh Tông ca ngợi gần gũi với cái nhìn vô vi của Trang Tử trong “Nam Hoa Kinh” và thấm đậm chất tài tử của thi gia hơn là màu sắc tôn giáo.
Về các nền tảng hình thành nên Đạo giáo sẽ thấy rằng Đạo giáo bao hàm trong đó các tín ngưỡng và tư duy cổ đại của Trung Hoa như phong thủy, chiêm bốc, kinh dịch, y đạo, khí công …v…v…
Những yếu tố này cũng được du nhập vào Việt Nam trong quá trình Đạo giáo ảnh hưởng tới miền Bắc nước ta.
Thậm chí ngay cả các vị thiền sư trong dòng Tì ni đa lưu chi cũng tiếp nhận.
Vạn Hạnh Thiền sư, người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua cũng là một vị có hiểu biết về đạo thuật, ông đã viết bài sấm ký và tạo ra các điềm để từng bước dân vận cho sự lên ngôi của họ Lý.
Nhà sư Không Lộ, một vị khác của dòng thiền này cũng thể hiện cái nhìn ảnh hưởng từ quan niệm phong thủy trong câu thơ: “Trạch đắc long xà địa khả cư” nghĩa là “Mảnh đất long xà chọn được nơi”.
Vua Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn, khi viết chiếu dời đô cũng phân tích lý do chọn thành Đại La dựa trên quan niệm phong thủy.
Thành Đại La được mô tả có thế “rồng cuộn hổ ngồi”, tương ứng với quan niệm đất tốt trong phong thủy cổ đại “tả thanh long, hữu bạch hổ”.
Cuốn “Binh thư yếu lược” của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng có ghi lại thuật chiêm tinh ứng dụng trong chiến trận của vị danh tướng này.
Lịch sử Việt Nam còn ghi nhận danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người giỏi thuật số và dịch lý, nổi tiếng với sấm Trạng Trình.
Ngoài ra, các danh sĩ Nho giáo khác như Phùng Khắc Khoan, Lê Qúy Đôn, Nguyễn Thiếp… đều thông thạo thuật số. Nguyễn Thiếp còn được vua Quang Trung mời đến Nghệ An xem thế đất và xây dựng Phụng Hoàng Trung Đô.
Như vậy, về mặt chính thống, Đạo giáo có ảnh hưởng tới chính quyền nước Việt thời phong kiến tư tưởng của Đạo gia kết hợp với tư duy vũ trụ luận và bản thể luận trong tín ngưỡng Trung Hoa cổ đại.
Còn các thuật bùa phép, trấn yểm giống với Thái Bình đạo không có được vị thế chính thống, thậm chí nhiều lần gắn liền với các nhóm nổi loạn.
Các biến thể trong dân gian và quá trình địa phương hóa
Ảnh hưởng rõ nét nhất của Đạo giáo trong dân gian lại chính là tục thờ thần tiên. Không ít địa danh ở miền Bắc Việt Nam gắn liền với các vị thần, vị tiên trong Đạo giáo Trung Hoa, ví dụ như Động Tam Thanh thờ ba vị thiên tôn trong Đạo giáo (Lạng Sơn), đền Trấn Vũ thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ (Hà Nội), đền Đậu An thờ Ngọc Hoàng (Hưng Yên)…
Thế nhưng, đa dạng hơn thế là hệ thống các vị thần tiên Việt Nam với nhiều sự tích đa dạng.
Các vị tiên tu đạo trên đất Việt:
Các đạo sĩ thường có xu hướng tìm những nơi thâm sơn cùng cốc để tu đạo, do đó miền Bắc Việt Nam là một khu vực lý tưởng cho họ.
Rất nhiều danh sơn trong khu vực này gắn liền với các tiên nhân.
Nổi tiếng nhất có lẽ phải kể đến Yên Kỳ Sinh với núi Yên Tử (Quảng Ninh).
Từ trước khi Thiền tông Trúc Lâm xây dựng trung tâm Phật giáo tại Yên Tử thì đây là mảnh đất của Đạo giáo với truyền thuyết về vị tiên nhân Yên Kỳ Sinh tu luyện linh đan.
Theo Liệt Tiên truyện, Yên Kỳ Sinh là vị tiên nhân từ thời Tần Thủy Hoàng, đã đến vùng đất Yên Tử để tìm cây thạch xương bồ rồi ở tại đây để tu luyện .
Những sự tích khác như tiên nhân ở động Hồ Công ; tiên nhân ở núi Nưa thuộc Triệu Sơn, Thanh Hóa ; chùa Tiên và giếng Tiên tại Lạng Sơn ; Từ Thức gặp tiên gắn liền với một loạt các địa danh như huyện Tiên Du thuộc Bắc Ninh, cửa biển Thần Phù thuộc Ninh Bình, núi Hoàng Sơn huyện Nông Cống thuộc Thanh Hóa … cũng cho thấy hiện trạng quy ẩn rừng núi tu đạo không phải là chuyện xa lạ trong văn hóa Việt Nam.
Thánh hóa các vị thần bản địa : Thánh hóa các vị thần bản địa chính là các yếu tố Đạo giáo được chính quyền phong kiến sử dụng để thống nhất tín ngưỡng của các địa phương; hoặc khi các nhà truyền đạo muốn tạo ảnh hưởng tới một địa phương nào đó.
Hiện tượng này có biểu hiện rất đa dạng, ở đây chỉ xin được liệt kê 4 trường hợp đó là Đức Thánh Tản Viên, Chử Đồng Tử, Trần Hưng Đạo, Mẫu Liễu Hạnh với hệ thống Đạo Mẫu.
Đức Thánh Tản Viên, như chúng ta đã biết chính là phong hiệu của Sơn Tinh núi Ba Vì (Hà Tây).
Câu chuyện về Đức Thánh Tản Viên được ghi chép lại trong “Việt điện u linh” và “Lĩnh Nam chích quái” đã mang màu sắc thánh hóa.
GS Từ Chi trong nghiên cứu về người Mường đã ghi lại vị trí quan trọng của núi Ba Vì – tiếng Mường là Pá Ví – trong tâm thức của dân tộc này:
Tản Viên vốn là con trai của bố Clượng, một vị thầy chuyên hành lễ cho linh hồn người sống.
Bố Clượng được Vua Khú mời xuống thủy cung để cứu một Khú con đi chơi, mắc lưới quấn cổ không thở được.
Nhờ có công cứu hoàng tử, Vua Khú tặng ông “con dao ước” và dặn rằng chỉ được dùng lúc còn sống, khi sắp chết phải trả lại cho vua.
Nhờ có dao thiêng, gia đình Bố Clượng trở nên giàu có nhưng bất thình lình bố mất mà không kịp dặn con trai trả dao cho Vua Khú.
Hôm đám tang, bọn Khú kéo đến rất đông để đòi dao nhưng người con trai không biết chuyện “Con dao Ước”.
Bọn Khú tưởng anh không chịu trả liền dâng nước để trừng phạt.
Anh con trai bỏ chạy, cứ hướng núi cao chạy, khi lên đến đỉnh núi Ba Vì thì nước ngừng dâng.
Từ đó trở vị thần núi tại đây.
Người Mường ở Thanh Sơn lại kể một câu chuyện khác về vị thần núi Ba Vì, có liên quan đến một người đàn bà tên là Đinh Thị Đen do ngủ quên trên một tảng đá mà thụ thai và sinh ra người con trai.
Sau người con trai này học phép thuật với một người phụ nữ họ Ma, chẩu mường ở núi Pá Ví, rồi thừa kế luôn địa vị của Ma thị.
Tương truyền Ma thị chính là Mẫu Thượng Ngàn trong Tứ Phủ.
Hai câu chuyện này tuy khác nhau về cốt truyện nhưng đều cho thấy gốc tích Mường của vị thần núi Ba Vì.
Trong quá trình ghi chép “Việt điện u linh” và “Lĩnh Nam chích quái” các tác giả theo tư tưởng Nho gia đã thánh hóa vị thần Mường này và khoác lên đó cái vỏ Đạo giáo với chức danh “Đức Thánh”.
Truyền thuyết về Chử Đồng Tử được ghi lại trong “Lĩnh Nam Chích quái”, một trước tác thời Lê Thánh Tông với tên truyện là “Nhất Dạ Trạch”.
Nguồn gốc của Chử Đồng Tử không rõ ràng và cũng không có nhiều dị bản như trường hợp thần núi Ba Vì, nên rất khó để đối chiếu và xác định.
Trong Lĩnh Nam chích quái, ta biết rằng Chử Đồng Tử sống ở thời vua Hùng Vương thứ 3.
Hùng Vương đến nay vẫn chỉ là huyền sử và khó có thể xác định gốc tích nhưng ở triều đại thứ 3 thì hẳn rằng chưa có tiên đạo và cũng chưa có Phật giáo.
Thế nhưng, câu chuyện về Chử Đồng Tử có nhiều dấu vết của tiên đạo (tên Tiên Dung của công chúa) và Phật giáo (người dậy phép thuật cho Chử Đồng Tử là một tăng sĩ có tên Phật Quang).
Như thế, “Lĩnh Nam chích quái” đã nhào nặn sự tích của một tộc nào đó về anh chàng may mắn lấy được con gái của một thủ lĩnh lại có được phép thuật trong tay. Chử Đồng Tử được các đạo sĩ nội tu của Việt Nam tôn vinh là Chử đạo tổ.
Trần Hưng Đạo là một trường hợp đặc biệt và thú vị trong quá trình “bị thánh hóa”. Bản thân Trần Hưng Đạo là người am hiểu các thuật trong Đạo giáo dù cho giữ vững tư tưởng trung quân của Nho giáo.
Sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, dân gian bắt đầu hình thành tín ngưỡng hầu đồng Đức Thánh Trần.
Nguyên nhân dẫn đến việc Trần Hưng Đạo được tôn thờ như một vị thánh trong tín ngưỡng không phải xuất phát từ chiến công đánh thắng quân Nguyên Mông của ông, mà từ chiến công huyền thoại chặc đầu vị tướng Chiêm Thành có tên là Phạm Nhan.
Phạm Nhan biết phép thuật, có thể chặt đầu này mọc đầu khác, nhưng Trần Hưng Đạo lại có thể chém chết.
Truyền thống hầu đồng Đức Thánh Trần không dùng để cầu phúc như chúng ta thấy ngày nay mà chủ yếu là để trừ tà ma, vốn rất khác với tín ngưỡng Đức Thánh Trần đang phổ biến tràn lan hiện nay.
Những học giả sùng tín đạo Mẫu, cố gắng chứng minh đạo Mẫu là tín ngưỡng thuần Việt, từ chối sự ảnh hưởng của Đạo giáo với hệ thống tín ngưỡng này.
Thế nhưng, nếu xem xét lại sự tích về Mẫu Liễu Hạnh, vị thánh mẫu quan trọng nhất, và cuộc chiến Sòng Sơn được ghi chép lại trong “Tang Thương Ngẫu Lục” giữa Liễu Hạnh và Nội Đạo Tràng sẽ thấy rằng khó có thể chối bỏ các dấu vết Đạo giáo.
Sự tích về Mẫu Liễu Hạnh cho thấy Liễu Hạnh có 3 lần giáng sinh và cả 3 lần này đều chịu sự điều tiết của Ngọc Hoàng, vị thần tối cao trong quan niệm thần tiên Trung Quốc.
Ở lần giáng sinh thứ 2, Liễu Hạnh có tên là Giáng Tiên với ẩn ý rằng bà ta chính là thần tiên giáng trần.
Ở lần giáng sinh thứ 3, lúc này đã là Liễu Hạnh, bà có một cuộc giao chiến pháp thuật với phái Nội Đạo Tràng tại Phố Cát, Thạch Thành, Thanh Hóa.
Lúc này, phái Nội Đạo Tràng được triều đình phái tới để tiêu diệt Liễu Hạnh.
Thanh thế của Nội Đạo Tràng lúc này rất lớn với hàng ngàn môn sinh từ kinh thành Thăng Long, Hưng Yên, Hải Dương, đến các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đặc biệt, khu vực Thanh Hóa là trọng địa của Nội Đạo Tràng và sự ảnh hưởng của Liễu Hạnh lúc bấy giờ là sự cạnh tranh với thế lực này .
Ban đầu, cho pháp lực thua kém các cao nhân của Nội Đạo Tràng nên Liễu Hạnh đấu phép thua phải bỏ chạy, chỉ đến khi quy y Phật giáo Liễu Hạnh mới có thể lật ngược tình thế.
Chỉ bắt đầu từ sự lên ngôi của Mẫu Liễu Hạnh, tính ngưỡng thờ Mẫu mới bắt đầu có tính hệ thống, tích hợp với Mẫu Thượng Ngàn Ma thị của người Mường, Mẫu Thoải (tương truyền cũng là con của Ngọc Hoàng) và Mẫu Thượng Thiên.
Một số thuyết còn cho rằng chính Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu Thượng Thiên, đại diện cho trời, nhưng cũng có thuyết khác cho rằng Mẫu Thượng Thiên chính là Cửu Thiên Huyền Nữ của Đạo giáo Trung Quốc, lại có thuyết cho rằng Mẫu Thượng Thiên là quốc mẫu Tây Thiên ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc).
Liễu Hạnh không đơn thuần là trường hợp thánh hóa các vị thần địa phương mà là trường hợp Đạo giáo phù thủy bị đồng cốt hóa.
Mặc dù trong truyền thuyết có chi tiết Mẫu Liễu Hạnh quy y cửa Phật nhưng ta không thấy hệ thống tín ngưỡng của bà ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo mà chỉ thấy đó là một cách để hợp lý hóa việc phối thờ Tứ Phủ trong nhà chùa.
Trong các tín ngưỡng liên quan đến Đạo giáo ở Việt Nam, khó khăn nhất trong việc tìm tư liệu có lẽ chính là Nội Đạo Tràng.
Không rõ có phải vì giáo phái này mật tu hay do chưa được quan tâm đúng mức nên chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể dù rằng đến nay Nội Đạo Tràng vẫn còn tồn tại.
Tư liệu sớm nhất về Nội Đạo Tràng được tìm thấy đến nay là văn bản khuyết danh viết vào năm 1660.
Các tư liệu khác đều có niên đại muộn hơn.
Nội Đạo Tràng ra đời từ đầu thời Lê Trung Hưng, gắn liền với truyền thuyết về đạo sĩ Trần Ngọc Lành.
Trần Ngọc Lành là con cầu tự của Quỳnh Lâm hầu, theo ghi chép của các tư liệu Nội Đạo Tràng thì ông là hậu kiếp của vua nước Tây Vực đầu thai mà thành.
Sau Trần Ngọc Lành được gặp Dược Sư Phật rồi được phong làm Thượng Sư, mở trường dậy đạo thuật.
Cuốn sách “Nội đạo tràng liệt thánh bảo lục” còn ghi chép thêm về các hệ thống thần tướng phục vụ dưới trướng Thượng Sư.
Nội Đạo Tràng được ghi chép lại trong “Tang thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ với trận chiến ở Sòng Sơn tranh chấp với Liễu Hạnh.
Giáo phái này có ảnh hưởng lớn ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An dưới thời Lê, đến nay, ở Quảng Xương, Thanh Hóa vẫn còn có 3 làng theo Nội Đạo Tràng và lưu giữ đền thờ Trần Ngọc Lành.
Nội Đạo Tràng là một hiện tượng tôn giáo phức tạp mà trong đó giáo lý thuộc Phật giáo nhưng cách tu luyện và dùng phép thuật lại giống với Đạo giáo.
Bản chất trận chiến giữa Nội Đạo Tràng và Liễu Hạnh chỉ là trận chiến giữa hai Đạo phái phù thủy đã bị lai tạp để tranh chấp địa bàn hoạt động và sự ảnh hưởng mà thôi.
.