LỊCH SỬ - KHÁM PHÁ - CHUYÊN ĐỀ

Núi Kim Dự, Hà Tiên (còn gọi là núi Pháo Đài) với những câu chuyện thực hư

Núi Kim Dự, Hà Tiên (còn gọi là núi Pháo Đài) với những câu chuyện thực hư.

Một trong những bức ảnh đẹp nhất chụp Pháo Đài (Hà Tiên) ngày nay. Photo: Nguyễn Hải Đăng (2017)

Trần Văn Mãnh

A/ Giới thiệu sơ lược về núi Kim Dự:

Trong tác phẩm bằng chữ nôm của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh) có nhắc đến tên “Kim Dự”, đó chính là một trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên. Ông Mạc Thiên Tích xướng thơ ca ngợi cảnh đẹp của đảo Kim Dự, là một hòn đảo ở ngay vị trí cửa biển Hà Tiên. Vì đảo có vai trò như ngăn cản sống dữ từ ngoài khơi bủa vào, che chở cho nội địa Hà Tiên nên Mạc Thiên Tích đặt tên cho bài thơ ca ngợi hòn đảo Kim Dự là “Kim Dự Lan Đào” (Kim: vàng, Dự: hòn đảo nhỏ, Lan: ngăn chận, Đào: sóng to, « Kim Dự Lan Đào »: Hòn đảo vàng nhỏ ngăn chận sóng to). Sau đây là bài thơ ca ngợi hòn đảo Kim Dự nguyên tác bằng chữ nôm của Mạc Thiên Tích, năm 1960 do thi sĩ Đông Hồ chỉnh và sắp xếp lại từ các bản dịch xuất bản từ năm 1904 trước đó như sau:

Kim Dự nầy là núi chốt then,
Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên,
Ngăn ngừa nước dữ không vùng vẩy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng,
Thế cả vững vàng trong Bắc hải,
Công cao đồ sộ giữa Nam thiên,
Nước yên chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa tiếp bách xuyên.

Tuy nhiên cũng cần chú ý là theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ sách địa lý, lịch sử Việt Nam soạn trong thời gian 1865 – 1882 dưới thời vua Tự Đức), đảo Kim Dự được mang tên đầy đủ là Đại Kim Dự, vì còn có một cảnh nữa đối diện với đảo Đại Kim Dự bên kia cửa sông, mang tên là Tiểu Kim Dự, theo thời gian đảo đã dính liền với đầu ngọn núi Tiểu Tô Châu, chỗ doi đất có miếu thờ Thủy Thần và miếu thờ cá Ông Nam Hải.

Từ xưa, mặc dù dưới thời họ Mạc trấn thủ Hà Tiên, đảo Kim Dự vẫn là một cứ điểm phòng thủ quan trọng để chống lại giặc Xiêm, nhưng trên mặt bằng của đảo vẫn chưa có công trình quân sự gì đáng kể. Sau trận giặc Xiêm lấn chiếm và phá hoại Hà Tiên (1833), nhà Nguyễn cử người tái thiết Hà Tiên, vua Minh Mạng cho lập một pháo đài và các công trình phòng thủ trên mặt bằng đảo Kim Dự (năm 1834).

Về địa hình, trên đỉnh hòn Kim Dự có dạng trái xoan, có xây công sự phòng thủ hình chữ U, chu vi khoảng 84,5 m và cao gần 3 m, nhà Nguyễn cho đắp đồn lũy trên đồi, đặt súng thần công nên từ đó có tên là núi Pháo Đài. Như vậy ta nên nhớ là khi nói đến núi Pháo Đài (hay người dân còn gọi tắt là Pháo Đài) tức là nói đến hòn đảo, ngọn đồi, hay ngọn núi Kim Dự, Từ đây về sau ta có thể đồng hóa tên gọi theo chữ nghĩa “Kim Dự” với cái tên thông dụng và bình dân là Pháo Đài.

Theo tài liệu do nhà chụp hình nỗi tiếng ở Hà Tiên ngày xưa, ông Quách Ngọc Bá viết trong quyển sách du lịch « HATIEN PHOTO »: Pháo Đài là một trái núi nhỏ ở ngay cửa sông Hà Tiên, cách chợ 600 m. Từ hồi Nam Triều đến thời Pháp thuộc vẫn là cứ điểm quân sự trấn giữ biển cả, trên có bố trí trọng pháo nên tên gọi là Pháo Đài. Ngọn núi Pháo Đài nầy có chiều cao khoảng 25 m.

Cách đây hơn một thế kỷ, hòn đảo Pháo Đài còn tách rời khỏi đất liền. Do có thủy triều lên cao thấp, nước lớn nước rồng, khoảng cách giữa hòn đảo nầy và đất liền xa gần khác nhau nên dân gian có đặt truyền thuyết là hòn Kim Dự là một hòn đảo nổi, trôi ra trôi vô theo con nước….

Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng Kim Dự là một hòn đảo nổi, dưới hòn đảo đó có một con Giao Long nằm ẩn mình tu lâu đời. Thỉnh thoảng con Giao Long cựa mình thì làm cho hòn đảo lay chuyển, khi trôi ra xa, khi dạt vào gần bờ.

Trong thời Pháp chiếm Hà Tiên, do công sức của các tù nhân, họ xây đắp một con đường nối liền đảo Pháo Đài với chợ Hà Tiên, gọi là đường Cầu Đá, dần dần con đường trở thành đường đất, rộng rải đủ cho xe cộ lưu thông. Bây giờ con đường trở thành một đại lộ đã tráng nhựa. Con đường nầy nối từ khu Chùa Quan Thánh (tên đúng là Miếu Quan Thánh Đế) chạy thẳng đến dưới chân núi Pháo Đài, ngày nay chính là đại lộ Mạc Thiên Tích. Xóm nhà hai bên con đường nầy còn có tên là xóm Cầu Đá.

Thời Pháp chiếm Hà Tiên trên Pháo Đài có lập một ngọn Hải Đăng và có nhân viên người Pháp quản lý. Sau nầy trong thời kỳ chiến tranh 1960 -1970 ngọn Hải Đăng bị bỏ hoang phế, ngày nay đã được phục hồi.

Trong những năm đầu của thế kỷ 20 (1900…) người Pháp dùng Pháo Đài để làm trại tù, nhốt những thường dân bị tội phạm. Thời gian sau vì Hà Tiên chưa có bệnh viện, người Pháp dùng mặt bằng trên Pháo Đài để làm trạm y tế. Đến khi bệnh viện Hà Tiên được cất lên, người Pháp xây dựng một nhà nghỉ mát trên mặt bằng Pháo Đài, gọi là Bungalow. Thời gian hoạt động của khu nghỉ mát Bungalow trải dài khoảng vài chục năm có lẽ từ những năm 1930 đến 1960…(Trong tập du ký xuất bản năm 1935 tác giả Cửu Long Giang có thuật lại chuyến du ngoạn ở Hà Tiên và có đến ngụ ở khách sạn trên đồi Pháo Đài).

Suốt những năm chiến tranh 60 – 70 Pháo Đài trở thành căn cứ quân sự, có tiểu đoàn 528 Địa Phương Quân đóng trên đó, lúc đó Đại Úy Trần Văn Thiệt là tiểu đoàn trưởng, dân chúng không được lui tới. Ngoài ra còn có một bộ phận của Hải Quân Mỹ đóng ở Pháo Đài.

Hiện nay Pháo Đài đã được phát triển thành một nơi ngắm cảnh, nghỉ ngơi, có khách sạn, hồ bơi, hoàn toàn được xem như một nơi tự do du lịch và dạo chơi rất lý thú, hoàn toàn có tính chất dân sự không còn dính líu đến việc phòng thủ quân sự nữa. Hơn nữa, ngày nay tên Pháo Đài cũng được dùng để đặt tên cho Phường Pháo Đài thuộc thành phố Hà Tiên.

B/ Những câu chuyện thực hư có liên quan đến núi Pháo Đài :

Sau đây là những câu chuyện có thật hoặc truyền thuyết có liên quan đến núi Pháo Đài được gom nhặt theo các tài liệu xưa, sắp xếp theo trình tự thời gian, mời các bạn đọc nhé.

1/ Chuyện sư nữ Tống Thị Sương tu ở am Quan Âm trên núi Kim Dự :

Theo sách chữ nôm “Gia Định Thành Thông Chí“ (1820), tác giả Trịnh Hoài Đức (1765-1825), bản dịch do Đỗ Mộng Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh, xuất bản năm 1998, nhà xuất bản Giáo Dục, phần « Phong Tục Chí », trang 152, có kể lại câu chuyện bà Tống Thị Sương đi tu ở một cái am nhỏ trên núi Kim Dự. Câu chuyện được tóm tắt như sau :

Vào thời Đô Đốc họ Mạc ở Hà Tiên, có một người con gái, tuổi mới 15, con nhà gốc gác giàu có, tài năng về nữ công khéo léo. Tiếng đồn vang xa, nhiều người làm môi giới đưa tin nhưng cô quyết không nhận lời ai cả, chỉ nguyện rằng : « Phải có lời Phật dạy mới kết nhân duyên ». Cha mẹ thấy khó hiểu nhưng cũng nghe theo lời và kiên nhẫn chờ đợi. Một hôm có nhà sư du phương, tên là Ngô Chân, sư theo giới pháp tinh mật, không chuộng kinh điển, chỉ niệm danh hiệu quý Phật, hằng ngày chỉ ăn rau quả, ngũ cốc, dân gian kêu là »Thái tăng » (tức nhà sư ăn rau), đi qua cửa nhà cô, nhân thấy y phục lót của cô họ Tống đang phơi, sư thích lắm và đi vào nhà cố xin cái áo đó, bảo là dùng để cúng Phật. Cha mẹ cô gái thấy kỳ lạ, xua đuổi nhà sư, nhưng cô họ Tống ra can ngăn, nhà sư cười to một tiếng rồi bỏ đi. Từ đó cô Tống Thị Sương phát lòng từ bi, niệm Phật hằng ngày và tỏ ý muốn trở thành ni nữ để theo hầu Bồ Tát Quan Âm. Cả nhà tìm cách khuyên ngăn, an ủi, cô nhất định không nghe, rốt cuộc gia đinh cô phải dựng một cái am nhỏ bên phía tả hòn núi Đại Kim Dự, cô vui vẻ đến tu trong am, người ta gọi là Quan Âm Viện. Cô bắt đầu thực hiện một bức thêu lớn hình Bồ Tát Quan Âm, mỗi một mũi kim thêu cắm qua vải là cô niệm Phật một tiếng, thêu được ba tháng thì xong bức thêu, hình ảnh Phật Quan Âm rất sống động như là Phật sống, Đức Bà đã thật sự sống động trên bức tranh thêu, rất giống một cách chính xác và không bao giờ một người họa sĩ nào có thể thành công trong việc tạo ra một bức tranh tương tự.

Đồng thời lúc đó, trong trấn Hà Tiên, có nhiều nhà tu đã hành trình đến ngôi chùa nỗi tiếng ở tỉnh Quãng Đông, để tìm những quyển kinh sách và học thuyết chân chính. Vì thế việc tu tập theo tông chỉ của phái Thiền Tông dần dần được người đương thời rất khen ngợi.

Chú thích: Câu chuyện kể trên thực hư như thế nào chúng ta khó mà kiểm chứng được. Theo một ý kiến của bạn Trương Thanh Hùng (học sinh Trung Học Hà Tiên xưa, nay là nhà nghiên cứu văn hóa vùng Hà Tiên), có thể ông Trịnh Hoài Đức đã lầm lẫn khi xác định vị trí của ngôi am Quan Âm trên hòn Đại Kim Dự, vì ngay thời gian câu chuyện là thời ông Mạc Cửu (hay Mạc Thiên Tích), hòn Đại Kim Dự nầy còn là một hòn đảo không gắn liền với phần đất của vùng Hà Tiên, việc đi lại ngôi am tự có thể là khó khăn nên ngôi am tự của bà Tống Thị Sương có thể là một ngôi am nào đó trong vùng đất liền của Hà Tiên. Các bạn ở Hà Tiên nếu có dịp hảy lên Pháo Đài cố gắng tìm hiểu về dấu tích, vị trí của ngôi am viện Quan Âm nầy nhé.

2/ Sách Gia Định Thành Thông Chí miêu tả về đảo Kim Dự :

Đảo Đại Kim ở vùng biển phía Nam trấn (tức trấn Hà Tiên), chu vi 193 trượng 5 thước. Đảo nầy ngăn đón sóng cồn, làm hạt ngọc biển của trấn. Nơi bờ có gác cái cầu ván để thông ra vào, phía sau có Viện Quan Âm là chỗ của Tống Thị Lương thờ Phật ở đấy ; phía tả có điếu đình, người du ngoạn thường khi gió tốt trăng trong thả câu ngâm vịnh. Phía trước có đặt trại Thủ Bị, phía Tây Nam xây vòng lũy đá để giữ giặc biển ? Đây là cảnh Kim Dự Lan Đào (đảo Kim ngăn sóng) trong 10 giai cảnh ở Hà Tiên, (trích sách Gia Định thành thông chí (1820), tác giả Trịnh Hoài Đức (1765-1825), dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, tập thượng, Nha Văn Hóa, phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa xuất bản, năm 1972, phần viết về Trấn Hà Tiên, trang 108).

3/ Núi Pháo Đài thời Pháp chiếm đóng Hà Tiên :

Theo quyển niên giám Đông Dương năm 1871 xuất bản tại Sài Gòn, và liên tiếp trong các năm 1874, 1876, 1878, 1879,…v…v  , có ghi rỏ trong mục căn cứ đồn bót quân sự thời đó, có dân quân (milices) do người Pháp chỉ huy, đóng tại núi Pháo Đài. Tuy nhiên sự đóng quân trên núi Pháo Đài nầy không biết kéo dài cho đến năm nào thì ngọn núi Pháo Đài được dành lại cho công cuộc du lịch dân sự với khu nghỉ mát Bungalow. Chỉ biết là theo quyển niên giám Đông Dương năm 1912, có ghi rỏ là trong thời gian nầy, người Pháp đã giải tán một phân đội gồm khoảng 40 người lính, do một trung úy chỉ uy với sự hổ trợ của hai trung sĩ, đều là người Pháp, trước đó đóng quân trên cao điểm núi Pháo Đài, Hà Tiên. (Annuaire Indochine 1912 : Service militaire : Un détachement d’une quarantaine de tirailleurs, commandé par un lieutenant aidé de deux sergents français, qui occupait le camp élevé de Phao-Dai a été supprimé).

Như vậy ta có thể biết là từ khi người Pháp chiếm Hà Tiên năm 1867, sau đó họ đã có trấn đóng trên núi Pháo Đài với một lực lượng dân quân sự, và cho đến đầu thập niên 1910 thì việc quân sự hóa núi Pháo Đài đã bị hủy bỏ, từ đó, trên mặt bằng núi Pháo Đài dùng làm trạm y tế cứu thương rồi sau đó có cất khách sạn Bungalow làm nơi nghỉ mát của khách du lịch.

Một phần của trang 159, quyển niên giám Nam Kỳ xuất bản năm 1871, phần viết về tỉnh Hà Tiên, có mục đồn bót quân sự: Các nơi có dân quân đóng đồn được kể ra là: Thạch Động, Giang Thành, Ghe-Him (không rỏ nơi nào) và Pháo Đài. Nguồn: gallica.bnf.fr / Bibliothèque nationale de France.

4/ Núi Pháo Đài là nơi có trại nhốt tù thời Pháp đóng ở Hà Tiên :

Trong những thập niên đầu thế kỷ 20, người Pháp dùng Pháo Đài làm nơi nhốt tù tội hình sự xã hội. Theo một bản tin của cảnh sát hình sự Pháp, số đặc biệt ra ngày 25 tháng ba năm 1936, trong danh sách các tù nhân vượt ngục trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng giêng năm 1916 đến ngày 31 tháng mười hai năm 1935, có kể đến một người tù nhân tên là Sơn Ruong, nông dân, sinh năm 1895 tại Thanh Xuyên, Trà Vinh, bị kết án ngày 3 tháng tám năm 1915 tại tòa Vĩnh Long, án khổ sai 10 năm vì tội giết người. Người tù nầy đã vượt ngục tại trại giam Pháo Đài, Hà Tiên ngày 9 tháng mười một năm 1916.

Tài liệu của cảnh sát hình sự Pháp về một người tù vượt ngục tại trại giam Pháo Đài, Hà Tiên. Nguồn: gallica.bnf.fr / Bibliothèque nationale de France.

5/ Trong bài « Cảnh Vật Hà Tiên » do Đông Hồ viết, có nhắc đến Pháo Đài :

Trong bài « Cảnh Vật Hà Tiên », do Đông Hồ viết và Nguyễn Văn Kiêm soạn đăng trên Nam Phong tạp chí, số 150, trang 451; xuất bản tháng 5 năm 1930 có một đoạn tả núi Pháo Đài như sau :

«Trên núi Pháo-đài, thuở cựu trào đóng đồn lính. Tân-trào cũng làm thế; đồn ấy thì còn mà quân lính Pháp đã đem hết về các trại Sài-gòn hay Châu-đốc.

Đồn cất kiên-cố, mà đã phá đi một phần, ngày nay chỉ còn một phần. Mấy khẩu súng cà-lâm vẫn còn chôn quanh theo núi.

Sở nhà trong đồn, đã phá các vách dày làm vách mỏng mảnh hơn. Nhà này để làm nhà thương cả vài mươi năm và làm nhà khách cả 3,4 năm nay, bóng cây rậm rạp, gió biển bốn mùa. Trên chót núi, trang đất bằng-thẳng, trừ một chót nhỏ cao lên 5, 7 thước. Lên đó được trông bãi nhà nò Lộc-trĩ, mấy khóm chà cây nhử cá ngoài biển. Sóng không trông được rõ. Dầu cho lượng sóng dữ-dội, ở trên cao cũng không biết được. Thấy sóng tuồng như bò bò chậm rải vô bờ, mà ghe thuyền tuồng như đi chậm chậm chứ không phải chạy buồm. Xe hơi, xe đạp đi vòng theo đường Khu-ốc; đường người đi là hai thang đá nhỏ, một thang xuống đường Cầu-đá, một thang xuống mé biển».

Chú thích : Qua đoạn mô tả nầy chúng ta rút ra được một thông tin là : Pháo Đài vào đầu thế kỷ 20 (khoảng 1900) được người Pháp dùng mặt bằng làm nhà thương. Sau đó khoảng từ năm 1920 hoặc 1930, Pháo Đài được dùng làm nơi nghỉ mát, có cất khách sạn Bungalow cho khách đến Hà Tiên du ngoạn có chỗ nghỉ ngơi. Ngoài ra có nhắc đến mấy khẩu súng thần công đặt trên Pháo Đài, không biết hiện nay súng có còn  hay không và có được giữ gìn tốt hay không.

6/ Câu chuyện kho báu họ Mạc :

Theo như sử liệu, chúng ta thấy rằng trong suốt thời gian họ Mạc gầy dựng và cai quản vùng đất Hà Tiên, giai đoạn cực thịnh là dưới thời ông Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích. Thời đó Hà Tiên trở nên một vùng đất rất phát triển, nền thương mại hàng hải đang tiến trển rất mạnh, họ Mạc trở nên rất giàu có. Từ đó có một vấn đề được đặt ra là họ Mạc có tích lũy một kho tàng của cải, báu vật hay không, và kho tàng báu vật nầy, nếu có, sẽ được lưu truyền lại cho con cháu về sau và đã được chôn dấu ở đâu?

Cho đến khi Pháp chiếm Hà Tiên năm 1867, người Pháp đặt một nền hành chánh lên các tỉnh miền Nam, dĩ nhiên là Hà Tiên lúc đó cũng bị đặt dưới quyền cai trị của người Pháp. Các quan chức Pháp lần lượt nắm quyền đứng đầu Hà Tiên dưới các danh xưng: Thanh Tra, Tham Biện, Chủ Tỉnh, Tỉnh Trưởng. Vào năm 1911, nhằm lúc viên Chủ Tỉnh tên là Roux Serret cầm quyền ở Hà Tiên. Viên chức nầy có nghe tin đồn về kho báu của gia đình họ Mạc nên tìm cách chiếm lấy. Viện cớ cần có đất đá để làm đường xá trong nội tỉnh Hà Tiên, viên quan nầy đặt ra công trình khai thác đá tại núi Bình San. Tất nhiên công trình sẽ chọn ngay những ngôi mộ xưa trong gia đình họ Mạc để khai quật, lấy đá. Ngôi mộ xưa của bà Hiếu Túc Phu Nhân Nguyễn Thị Thủ, chánh thất của Đô Đốc Mạc Thiên Tích bị xâm phạm trước nhất. Công cuộc khai quật mộ do một đoàn tù khổ sai thực hiện, họ đào xới, đục mộ trong vòng 10 ngày mới đến phần bên trong mộ. Lễ bốc mộ có sự chứng kiến của chính quyền và con cháu họ Mạc. Lúc đó ông Mạc Tử Khâm, hậu duệ trong gia đình họ Mạc, có mặt và đã gom góp hài cốt của bà Hiếu Túc Phu Nhân xếp vào một cái quách nhỏ và đưa về đền thờ họ Mạc chờ cải táng.

Thự sự trong việc khai quật ngôi mộ nầy, viên chủ tỉnh không tìm được kho báu gì cả, chỉ vỏn vẹn vài vật dụng mang theo cho bà không gì quí cả. Chỉ có cây trâm vàng cẩn ngọc thạch, vài cái trâm cài đầu, vòng trang sức đeo tai, đeo cổ…, hàng nhiễu tẩn liệm và bình nước, ấm trà bằng sứ mà thôi. Tất cả đều rất ít giá trị.

Có một câu chuyện được truyền tụng sau nầy, không biết thực hư như thế nào, chuyện kể là trong thời gian quật mộ, việc chức chủ tỉnh thường xuyên đi ngựa đến núi Bình San để xem xét, đốc thúc công việc. Có một hôm đang trên lưng ngựa trú mưa cạnh núi Lăng, bỗng nhiên có sấm sét nổi lên, một tia sét đánh trúng một thân cây gần đó làm con ngựa hoảng sợ tháo chạy, viên quan Roux Serret bị ngã ngựa và suýt mất mạng… Sau khi thoát nạn, ông ta tin rằng mình đã bị trừng phạt về việc đào mộ tìm kho báu nên đã ra lịnh cho ngưng công trình đào các ngôi mộ còn lại và đem các cổ vật tìm được trả lại cho gia đình con cháu họ Mạc và cho tiến hành việc cải táng bà Phu Nhân trong khuôn viên khu mộ trên núi Lăng.

Có một tin đồn là trong lúc lấy các vật dụng trong ngôi mộ bà Phu Nhân, viên chức chủ tỉnh có để lại cho ông Mạc Tử Khâm một cái trâm vàng có gắn ngọc quý. Về sau, ông Mạc Tử Khâm có bán lại chiếc trâm vàng có gắn ngọc nầy cho viên chức người Pháp tên là Pierre Chapuis, người đang cai quản ngọn hải đăng ở núi Kim Dự, Pháo Đài (ông Pierre Chapuis cũng có thời gian coi sóc ngọn hải đăng ở núi Đèn, Mũi Nai). Từ đó về sau, gia đình Chapuis gặp nhiều điều không may mắn…

7/ Bức ảnh chụp toàn diện phố Hà Tiên từ phía Bungalow trên Pháo Đài :

Khoảng giữa năm 2017, mình có tìm thấy một thông tin trên site AAVH (Association des Amis du Vieux Huế : Hội Ái hữu Cố đô Huế ), thông tin có ghi hàng chữ như sau : « Romer Cochinchine, Hatien, 1942 – Vue prise du bungalow ». (Người chụp tấm ảnh tên Romer, Nam Kỳ, Hà Tiên, quang cảnh chụp từ phía Bungalow). Sau đó mình có liên lạc bằng mails với người quản lý site nầy, ông là người Pháp tên là Jean Cousso và ông đã vui vẻ hồi âm và còn chia sẻ cho mình bức ảnh đó. Ông Cousso giải thích như sau :

« Voici la photo demandée en haute définition. Elle a été prise par le Directeur de la météo de Hatien. Merci de mettre la mention suivante pour la photo : AAVH Jean Cousso AP5268. C’est madame Denise Romer, fille du Directeur de la Météo qui m’a confié ce fonds de photographies des centres météo de l’Annam ».

Ông gởi tặng cho mình bức ảnh chụp toàn diện Hà Tiên từ phía Bunglow trên núi Pháo Đài, bức ảnh do ông Romer, lúc đó làm giám đốc sở Khí Tượng tại Hà Tiên và có dặn là hảy ghi rỏ nguồn bức ảnh là AAVH Jean Cousso AP5268. Ông nói chính bà Denise Romer, con gái của ông giám đốc sở Khí Tượng trao cho ông quản lý toàn bộ những bức ảnh về các đài Khí Tượng ở An Nam.

Chú thích : Qua bức ảnh nầy ta thấy người chụp đứng trên núi Pháo Đài, chỗ có khách sạn nghỉ mát (Bungalow) chụp về phía phố chợ Hà Tiên, năm chụp hình là năm 1942. Như vậy từ những năm 1930 đến năm 1940, Pháo Đài vẫn là nơi có khách sạn nghỉ mát Bungalow (sau giai đoạn người Pháp dùng mặt bằng trên Pháo Đài để làm nhà thương).

Toàn cảnh Hà Tiên được chụp từ trên Bungalow, núi Pháo Đài, Hà Tiên.Nguồn: AAVH Jean Cousso AP5268

8/ Quá trình quân đội VNCH và Mỹ đóng quân trên núi Pháo Đài :

Thực sự là rất khó biết được chính xác quân đội VNCH đóng căn cứ trên núi Pháo Đài từ khi nào, trước hay sau khi quân đội Mỹ đến Pháo Đài. Tuy nhiên, ta có thể ghi nhận là sau một thời gian dài khoảng từ thập niên 30 đến giữa thập niên 60, Pháo Đài vẫn là nơi khách du ngoạn được tự do lui tới và nghỉ đêm tại khu khách sạn (Bungalow). Đến thời kỳ chiến tranh 60-70, Pháo Đài trở thành một căn cứ quân sự, dân chúng không được lui tới. Có một tiểu đoàn Địa Phương Quân VNCH đóng trên núi Pháo Đài dưới quyền chỉ huy của trung úy Thịnh (trung úy Thịnh có cưới vợ là học sinh trường Trung Học Hà Tiên) và sau đó là đại úy Trần Văn Thiệt, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 528, trung úy Tài là tiểu đoàn phó.

Hải Quân Mỹ đến Hà Tiên và đóng tại núi Pháo Đài vào cuối năm 1968 hoặc đầu năm 1969. Đó là đơn vị thuyền tuần tra sông ngòi RIV DIV 532, PBR (River Divison 532 : Đơn vị sông ngòi 532, PBR: Patrol Boat Riverine : Thuyền tuần tra sông ngòi). Lúc đầu đơn vị nầy bị thương vong gần 50% sau đó phải bổ sung thêm. Đơn vị nầy dùng những chiếc tàu nhỏ, nhưng chạy rất nhanh để hoạt động (Swiftboats). Những chiếc tàu nhỏ nầy đậu tại những cầu phao dọc theo dưới chân núi Pháo Đài và thường xuyên đi tuần theo con sông Giang Thành và kênh Vĩnh Tế.

Trên mặt bằng của núi Pháo Đài, có một căn nhà là nơi ở của một đội cố vấn người Mỹ gồm khoảng 4 người cùng với một đơn vị Địa Phương Quân đóng trên đó. Đại úy chỉ uy trưởng đơn vị Địa Phương Quân (tiểu đoàn 528) thường xuyên liên lạc với thiếu tá lục quân Mỹ, trưởng đoàn cố vấn Mỹ trên Pháo Đài. Ngoài ra từ năm 1969 cũng có một sĩ quan đặc biệt Mỹ ở cùng với đội cố vấn Mỹ.

Vào khoảng giữa năm 1970, hải quân Mỹ trên Pháo Đài chuyển giao tàu thuyền cho hải quân VNCH, lúc đó công việc thiết lập căn cứ hải quân ACTOV ở phía Đông Bắc Hà Tiên dọc theo bờ sông Giang Thành cũng hoàn thành. (ACTOV : Accelerated Turnover to the Vietnamese : tăng tốc độ chuyển giao cho người Việt Nam), cố vấn Mỹ và một số người Mỹ chuyển qua căn cứ mới.

Tàu tuần tra hải quân Mỹ đóng tại căn cứ Pháo Đài Hà Tiên (khoảng năm 1970). Nguồn hình: VAS078886 LOH at Hatien, VAS078886, Harry Peplinski, Jr. Collection, The Vietnam Center et Sam Johnson Vietnam Archive, Texas Tech University. (https://vva.vietnam.ttu.edu/repositories/2/digital_objects/607378)

9/ Câu chuyện em bé tên Châu :

Trong thời gian hải quân Mỹ đóng trên Pháo Đài, có xảy ra một câu chuyện thương tâm là vụ tai nạn nổ lựu đạn làm chết một em bé trai người Việt. Câu chuyện được một người sĩ quan đặc biệt Mỹ kể lại trong một quyển sách của ông viết về các hoạt động của ông trong thời gian 1968-1970 tại Hà Tiên. Câu chuyện như sau :

Trong số những người lính Mỹ đóng quân tại cao điểm Pháo Đài, có một anh nhân những lúc đi lại ở Sài Gòn, có làm quen với một em bé trai, tên là Châu, em khoảng 9 tuổi, mồ côi cha mẹ, vì thế em thuộc nhóm trẻ con đường phố. Anh lính Mỹ đưa em Châu về sống với anh ngay tại trên núi Pháo Đài, Hà Tiên. Trước kia ở Sài Gòn, em Châu vốn là một cậu bé trộm cắp sống theo ngoài đường phố, thế mà qua sáu tháng sống ở Pháo Đài, Hà Tiên, em Châu trở nên hiền hơn và trở lại thành một đứa bé với cái cá tính trẻ con của lứa tuổi của em. Với không gian tỉnh lẻ khá êm dịu của phố Hà Tiên, sự săn sóc, bảo trợ của anh lính Mỹ và nhất là không còn lo lắng về bữa ăn phải tìm ra từng ngày, tính tình em Châu trở nên cân bằng và ổn định hơn. Những lúc anh lính Mỹ phải vắng mặt nhiều ngày vì việc quân sự, em Châu tỏ ra buồn bả và khóc lóc với ý nghĩ là anh lính không trở lại được với em…Thêm nữa là vì lý do an ninh, em Châu ở trong cùng căn nhà với cô Hoàn (hay Hoan?), một cô thợ giặt ủi người Việt phục vụ trên Pháo Đài. Anh lính người Mỹ cũng có dự định tìm trong khu phố Hà Tiên một ngôi nhà nào có thể tiếp nhận em Châu để nuôi dưỡng em, nhưng công việc tuần tra không cho phép anh có thời giờ lo cụ thể việc nầy.

Một hôm, tự dưng các người lính Mỹ trên Pháo Đài thấy cô Hoàn chạy từ căn nhà cô ở ra ngoài sân, cô vừa chạy vừa rên rỉ, rồi tiếp theo đó là cánh cửa sổ và cửa cái của căn nhà bay tung ra với tiếng nổ xé không gian…, khói xám bay đầy và cô Hoàn té xuống giữa đám bụi mịt mù.

Mọi người đều nghi rằng có một cuộc tấn công đang diễn ra, tuy nhiên tiếp theo đó là vài tiếng kêu la bằng tiếng Việt, lực lượng địa phương chạy tung ra khỏi các căn trại với súng trên tay. Khi thấy không có biến cố nào khác tiếp tục, họ chạy vào căn nhà nơi cô Hoàn vừa chạy ra, lập tức họ đã hiểu là điều gì đã xảy ra… !! Trong căn nhà, mùi thịt cháy lấn át mùi khét, chung quang bức tường có trang hoàng các hình ảnh Playboy đang bốc cháy với những miếng thịt đỏ nhỏ xíu văng tung tóe…Miếng niệm của em Châu đang nằm bốc cháy ngùn ngụt với một lỗ thủng lớn.

Theo lời cô Hoàn thuật lại, sự việc là dưới gầm giường em Châu nằm có một thùng lựu đạn, hôm đó em Châu thấy và lấy một quả lựu đạn cầm trên tay chơi. Cô Hoàn rầy la và nói đừng chơi như thế rất nguy hiểm…Em Châu lại cười và giả vờ rút chốt quả lựu đạn, rốt cuộc cái chốt lựu đạn lại tuột ra…, cô Hoàn hoảng sợ chạy cuồng ra khỏi căn nhà, thế là một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra, nhiều quả lựu đạn cùng nổ và em Châu đã chết một cách thảm khốc với thân xác tan nát cả ….Hài cốt của em Châu đã được chôn cất tại một nơi nào đó ở trên núi Pháo Đài. Cái chết của em đã làm cho người lính Mỹ rất đau buồn.

Chú thích : Câu chuyện nầy do một sĩ quan người Mỹ tên là HL Serra kể lại cho mình qua trao đổi mails (ông cũng chia sẻ cho mình nhiều tấm hình về Pháo Đài, dừa ba ngọn, khách sạn Lâm Văn Cao… rất quý và hiếm có về cảnh của Hà Tiên vào những năm 60-70). Ông có nói tại dưới chân núi Pháo Đài còn có một nghĩa địa (theo góp ý của bạn Lâm Thị Lan, học sinh của Trung Học Hà Tiên xưa, đó là nghĩa địa Thiên Chúa Giáo, vì kế dưới Pháo Đài có một xóm Đạo rất đông đúc) và như trên đã kể, ở núi Pháo Đài cũng có ngôi mộ của em Châu. Như vậy nếu các bạn có dịp đi chơi trên Pháo Đài, thử tìm hiểu xem hiện nay có còn nghĩa địa nào trên sườn núi Pháo Đài hay không.

10/ Ngày nay vẫn còn có tác giả nhắc lại bà Tống Thị Sương :

Trong bài viết « Sự ra đời của ‘’con gái đức Phật’’ vùng Nam Bộ », tác giả là Thích Nữ Liên Thảo, đăng trong quyển sách « Các hệ phái Phật giáo và tôn giáo mới tại vùng Nam Bộ », chủ biên Thích Nhật Từ, nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, 2020,, tại trang 140, có nói về hai vị Ni xuất hiện đầu tiên vùng Nam Bộ như sau : « Có hai vị Ni xuất hiện và được nhiều người quan tâm đến là sư Lê Thị Nữ, ẩn tu trên núi Thị Vải thuộc Bà Rịa, Vũng tàu và sư Tống Thị Sương ở đảo Kim Dự, thuộc trấn Hà Tiên. Chỉ biết có thế thôi còn việc hai vị nầy có thọ đại giới (Tỳ kheo ni) không thì không thấy sách sử ghi lại».

C/ Tạm kết luận:

Qua các tài liệu hình ảnh và trích dẫn trên, chúng ta có thể biết được một cách sơ lược quá trình sinh hoạt của con người trên hòn núi Kim Dự. Tuy những mốc thời gian còn chưa được biết đến một cách chính xác, nhưng ta có thể thấy các giai đoạn sinh hoạt trên núi Kim Dự như sau:

a/ Thời kỳ từ Mạc Cửu khai phá đất Hà Tiên cho đến năm 1833: Núi KIm Dự có thể còn chưa thực sự gắn liền với nội địa Hà Tiên, tuy nhiên về sau có thể đã có cầu đá giúp cho việc đi lại từ đất liền Hà Tiên với núi Kim Dự dễ dàng hơn. Không biết đã có quân lính họ Mạc trấn giữ trên núi hay không. Thời gian nầy có thể có ngôi am tự « Viện Quan Âm » của ni Nữ Tống Thị Sương cất để tu trên núi Kim Dự.

b/ Từ năm 1833 trở đi đến năm 1867 khi Pháp chiếm đóng Hà Tiên: Nhà Nguyễn cho tu bổ lại các công trình phòng thủ và xây pháo đài kiên cố, có đặt súng thần công trên núi Kim Dự, từ đó núi Kim Dự còn có tên là núi Pháo Đài.

c/ Sau năm 1867 đến khoảng đầu thế kỷ 20 (1900): Người Pháp đặt đồn bót và có dân quân cùng với sĩ quan Pháp trấn đóng trên núi Pháo Đài.

d/ Những thập niên đầu của thế kỷ 20 cho đến khoảng thập niên 1950: Người Pháp dùng mặt bằng trên núi Pháo Đài làm nhà thương, có trại giam giữ các tội nhân hình sự. Sau đó người ta cất nhà cửa, khách sạn gọi là Bungalow và núi Pháo Đài được dùng như một nơi nghỉ mát và nghỉ đêm, phục vụ cho khách du ngoạn viếng thăm Hà Tiên.

e/ Thời kỳ chiến tranh 1960 – 1970: Pháo Đài dùng làm căn cứ quân sự, có đơn vị Địa Phương Quân của VNCH và đơn vị hải quân Mỹ đóng tại núi Pháo Đài. Dân chúng không được tự do lên núi như thời trước.

f/ Sau năm 1975, sau một thời gian quản lý, chánh quyền địa phương đã cho phép khai triển mặt bằng Pháo Đài thành một nơi du lịch, có khách sạn, hồ bơi và các sinh hoạt trên mặt bằng Pháo Đài hoàn toàn có tính chất dân sự, khách du lịch đến nghỉ qua đêm và có cửa hàng ăn uống rất phồn thịnh.

D/ Một số hình ảnh sưu tầm về núi Pháo Đài qua các giai đoạn thời gian:

D1/ Hình ảnh Pháo Đài đầu thế kỷ 20 (khoảng 1900):

Cổng vào trại lính trên núi Pháo Đài, Hà Tiên. Hình sưu tầm do người Pháp chụp. (Vietnam COCHINCHINE, Hà Tiên, Entrée de Pháo Đài, Citrate print 1902 – 18×12 cm)

Cổng vào trại lính trên núi Pháo Đài, Hà Tiên. Hình sưu tầm do người Pháp chụp. (Vietnam COCHINCHINE, Hà Tiên, Entrée de Pháo Đài, Citrate print 1902 – 18×12 cm)

Hai người sĩ quan Pháp trên núi Pháo Đài, Hà Tiên. Hình sưu tầm do người Pháp chụp. (INDOCHINE, Deux Officiers du 11e RIC au cap de Phao Dai, Citrate 1902 – 12x16cm)

Trại lính Pháp trên Pháo Đài, Hà Tiên. Hình sưu tầm do người Pháp chụp. (INDOCHINE Phao Day – Caserne du 11e Col. et Tirailleurs, Citrate 1903 – 12×16 cm)

Nhà của sĩ quan Pháp trên núi Pháo Đài, Hà Tiên. Hình sưu tầm do người Pháp chụp. (Indochine COCHINCHINE Phao Dai, « L’ami Boitard*chez lui », Citrate 1902 – 12×18 cm)

Phần đầu của núi Tiểu Tô Châu và Đại Tô Châu ngay cửa ra biển. Ảnh người Pháp chụp từ trên Pháo Đài Hà Tiên khoảng trước năm 1931. Photo: Nadal, trích trong tài liệu « Exposition coloniale internationale Paris 1931 ». Chú thích của hình có ý nói là « Hà Tiên-Vịnh và đường vào cảng ». Nguồn: gallica.bnf.fr / Bibliothèque nationale de France.

D2: Hình ảnh Pháo Đài trong thập niên 50:

Pháo Đài (Hà Tiên) thời lính Pháp đóng quân tại Hà Tiên (trước năm 1953). Photo: Roland Drosson. (http://www.anciens-cols-bleus.net/t23368p850-operations-de-guerre-indochine-tome-7)

D3: Hình ảnh Pháo Đài trong những thập niên 60-70:

Mặt bằng trên Pháo Đài (Hà Tiên) chụp không ảnh thời chiến tranh 60-70. Photo: Fred McCarthy. Credit: E. « Doc » Riojas. (http://www.sealtwo.org/photoalbum06.htm)

Vị trí núi Pháo Đài, Hà Tiên do ảnh chụp trên không trung. Hà Tiên Aerial – Photo by Don Griffin 1966-67. Nguồn: Collection Nguyễn Xuân Thắng, TommyJapan1 chia sẻ trên mạng.
(https://www.flickr.com/photos/97930879@N02/albums/page4)

Pháo Đài (Hà Tiên) trong những năm 60-70. Photo: Dave Stevenson.  (http://www.pcf45.com/sealords/hatien/hatien.html)

Pháo Đài (Hà Tiên) trong những năm 60-70. Photo: Rich Krebs.  (http://www.tf116.org/vgallery7.html#Krebs)

Dưới chân đồi Pháo Đài, Hà Tiên, thời chiến tranh. Photo: HL Serra 1970

D4: Hình ảnh Pháo Đài trong thập niên 70:

Pháo Đài (Hà Tiên) nhìn từ núi Tô Châu. Photo: Quách Ngọc Bá (1973)

Cận ảnh Pháo Đài (Hà Tiên). Photo: Quách Ngọc Bá (1973)

Cận ảnh Pháo Đài (Hà Tiên). Photo: Quách Ngọc Bá (1973). Nguồn hình do: Trần Hoàng Trang.

D5: Hình ảnh Pháo Đài trong thập niên 90:

Pháo Đài (Hà Tiên) thời thanh bình. Photo: Trần Văn Mãnh 1994

D6: Hình ảnh Pháo Đài sau năm 2000:

Pháo Đài (Hà Tiên) ngày nay thời thanh bình. Photo: Bùi Thị Đào Nguyên 2009

Pháo Đài (Hà Tiên) ngày nay thời thanh bình. Photo: Phat Austin Tran 2015

Paris, viết xong ngày 29/07/2022, Trần Văn Mãnh (Patrice Tran).


Trân trọng cám ơn quý tác giả những hình ảnh minh họa cho bài viết.(TVM). Grands Remerciements aux auteurs des photographies illustrées à l’article. Many thanks to the authors of the photographs illustrated in the article.

Tài liệu tham khảo: Trân trọng cám ơn quý tác giả và dịch giả.
Đại Nam Nhất Thống Chí.
Gia Đinh Thành Thông Chí: Bản dịch Đỗ Mộng Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh.
Gia Định Thành Thông Chí: Bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo.
HATIEN PHOTO: Quách Ngọc Bá.
Annuaires de la Cochinchine française: Bibliothèque nationale de France.
Quyển sách của người Mỹ: HL Sera.
Nghiên Cứu Hà Tiên (Họ Mạc với Hà Tiên) Trương Minh Đạt 2016.
Hà Tiên, đất nước&con người: Nhóm biên soạn Hà Tiên 1999.
Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ&Mộng Tuyết 1996.
Thất Sơn, Hà Tiên: Cửu Long Giang.
Sự ra đời của ‘’con gái đức Phật’’ vùng Nam Bộ: Thích Nữ Liên Thảo.

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0914-098-111