VĂN HÓA-ĐỜI SỐNG- KỸ NĂNG SỐNG ĐẸP

Mâm quả ‘cầu vừa đủ xài’ và triết lý sống hướng thượng của người Nam bộ

Mâm quả ‘cầu vừa đủ xài’ và triết lý sống hướng thượng của người Nam bộ

Không biết từ khi nào người Nam bộ vào mỗi dịp Tết thường bày mâm ngũ quả gồm: mãng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài để bày tỏ mong ước “cầu sung túc vừa đủ xài” trong năm mới, qua đó thể hiện lối sống đơn giản, mộc mạc, thuần phác, không tham lam, không đua tranh của người Nam bộ. 

Lối sống ấy của người Nam bộ được kết tinh trong dòng chảy lịch sử thuận theo sự ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, và đặc biệt là sự giao thoa hài hòa giữa các quan niệm trong Đạo giáo, Khổng giáo, Phật giáo Đại thừa với các quan niệm của Phật giáo Nam Tông, tất cả vốn đều khuyến khích sự đơn giản, khiêm tốn, và không dính mắc vào vật chất.

Tri túc

Sau những biến cố lịch sử của dân tộc hoặc cá nhân, người Việt nhiều thế hệ di cư dần vào phía Nam mang theo những quan niệm trong Đạo giáo, Khổng giáo và Phật giáo Đại thừa. Ba chính giáo này đều dạy người ta nên “tri túc”, tức là nên biết đủ.

Trong “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử giảng: “Tri túc giả phú”, nghĩa là: “Người biết đủ là người giàu có nhất”.

Đạo giáo của Lão Tử giảng “vô vi”, tức hãy thuận theo tự nhiên, để mọi thứ tại những vị trí mà tạo hóa muốn sắp xếp như thế. Cho nên người biết đủ thường “vô vi”, họ không tham và không cố gắng vi phạm các quy chuẩn đạo đức để đoạt lợi, nên họ có thể tìm thấy hạnh phúc trong những điều giản dị.

Chẳng phải con người thường chúc nhau hạnh phúc, tức hạnh phúc là điều mà ai cũng truy cầu, vậy thì người biết đủ đã một cách tự nhiên đạt được điều đó. Điều này là dễ hiểu vì họ không bị xáo trộn bởi những lo toan vật chất hay rơi vào những xung đột với người khác. Họ thường được sống trong an nhiên, tự tại, trong hạnh phúc thực sự mà lại chỉ phải tốn ít chi phí nhất, gần như không bị phương hại gì, cũng không gây tổn hại cho người khác.

Tri túc mà Lão Tử giảng cũng thống nhất về ý tưởng với một lời giảng của Khổng Tử, một thánh nhân khác của Văn hóa Thần truyền Trung Hoa.

Khổng Tử nói: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã”, nghĩa là: “Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó mới chính là biết.” Trong câu nói này, Khổng Tử không nhắc một cách trực tiếp đến “tri túc”, nhưng có thể hiểu rằng, câu nói của ngài khuyên chúng ta nên thành thật, chấp nhận giới hạn của bản thân, đó cũng là biết đủ, làm như thế thì chính là người không si mê ngu muội.

Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong Phật giáo có liên quan đến “tri túc” là “dukkha” (khổ). Phật giáo quan niệm sự khổ đau mà con người phải chịu đựng trong cuộc sống bắt nguồn từ tham (thèm muốn), sân (giận dữ), và si (ngu muội). Nên để thoát khỏi khổ đau này thì trước tiên cần diệt tham, điều này đồng nghĩa với việc con người nên hài lòng với những gì mình có, tức nên biết đủ, không để những ham muốn, tham vọng vô độ chi phối cuộc sống.

Từ những quan niệm trong Đạo giáo, Khổng giáo và Phật giáo có thể thấy mâm quả “cầu vừa đủ xài” của người Nam bộ không chỉ đơn sơ và đơn giản như vẻ bề ngoài của nó, nó chính là một biểu tượng của “tri túc”, là kết tinh của những trầm tích văn hóa mà người Việt đi mở cõi tích lũy trong suốt chiều dài lịch sử.

Tết miền Nam.

Mâm quả ẩn giấu ý nghĩa nhân sinh

2500 năm trước, Đức Phật Thích ca mâu ni hé lộ cho nhân loại biết thiên cơ rằng đời là bể khổ, con người khổ vì tham, sân, si. Pháp của ngài đưa đến cách hiểu rằng con người bị chìm trong lục đạo luân hồi, không thể thoát ra được Tam giới.

Phật giáo nói về Vô Thường. Vô Thường có nghĩa rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong thế gian con người đều luôn thay đổi, biến hóa, tức sự tồn tại của mọi thứ chỉ có tính nhất thời, không gì là vĩnh cửu. Con người nên nhìn ra tính Vô Thường đó để không bị dính mắc, bám víu vào mọi điều, vì tất cả ở thế gian này đều chỉ là tạm bợ.

Phật giáo cho biết rằng chỉ có tu hành diệt được tam độc: tham, sân, si, trở thành người tốt siêu thường thì mới có thể giải thoát khỏi Tam giới, mới tới được cõi niết bàn, nơi không còn luân hồi, con người đạt trạng thái của Thần và an lạc tuyệt đối trong vĩnh cửu.

Phật giáo Nam Tông,  còn được gọi là Theravāda, có ảnh hưởng khá sâu sắc tới quan niệm của người Nam bộ. Phật giáo Nam Tông tập trung giảng về tu hành cá nhân, người tu cần đạt được quả vị A La Hán để giải thoát. Nhận thức được lợi ích rất cụ thể và thiết thực của tu hành cá nhân, nên dường như mỗi người Nam bộ thấm nhuần triết lý của Phật giáo Nam Tông đều rất chủ động trong thực hành triết lý nhà Phật, cụ thể là việc tích đức, hành thiện. Điều này được biểu thị phần nào thông qua lời nói, và những hành động có thể là rất nhỏ trong đời sống của họ.

Ở xứ Nam kỳ, người dân thường lưu truyền những câu tục ngữ để tự răn mình và nhủ người hãy trọng đức, sống nhân nghĩa, thuận đạo Trời. Ví dụ như: “Có nhơn có đức mặc sức mà ăn”, hay “Ở phải ông Trời đãi cho. Ở so đo ông trời co lại”,  hoặc “Thà nghèo mà sạch, còn hơn giàu mà dơ”.

Nhơn, tức nhân, hay Đức là hai cái tên thường thấy ở người Nam bộ, cho thấy rằng điều mà nhiều đấng sinh thành ở miền Nam kỳ vọng là con mình sẽ trở thành người tốt, sống có nhân có đức. Đây là điều rất đáng trân quý trong bối cảnh cơn lũ quét của thói đời trượt dốc khiến nhiều người sẵn sàng vứt bỏ đạo đức, chà đạp đạo lý để đoạt được cho được thật nhiều kim tiền, danh vọng.

Mâm quả cầu vừa đủ xài có thể coi là một sự thể hiện của việc thực hành giáo lý Phật giáo của người Nam bộ. Mâm quả đó là một biểu thị của sự nhận thức về ý nghĩa của kiếp nhân sinh rằng, cõi người chỉ là cõi tạm, làm người điều cần hướng tới không phải là cố gắng thỏa mãn các dục vọng của nhục thân mà là cần trọng đức, hành thiện để gieo duyên cho tu hành sau này, hướng tới giải thoát.

Ở xứ Nam kỳ, người dân thường lưu truyền những câu tục ngữ để tự răn mình và nhủ người hãy trọng đức, sống nhân nghĩa, thuận đạo Trời.

Truy tìm nguồn gốc của sinh mệnh

Đức Thích ca nói sở dĩ con người có mặt ở Tam giới do duyên khởi từ nghiệp ác. Đức Chúa Giê-su thì giảng rằng tất cả con người đều đã phạm tội và cần sự cứu rỗi từ Thiên Chúa. Những điều Đức Thích ca và Chúa Giê-su giảng khiến thế nhân lờ mờ hiểu được lý do con người tại sao lại phải sống trong khổ đau như vậy nơi Tam giới này.

Điều trùng hợp khá thú vị là 4 thứ trái cây trong mâm ngũ quả của người Nam bộ gồm mãng cầu, dừa, đu đủ và xoài đều là những trái cây có nhiều vị ngọt, thanh mát, dễ chịu như tính cách của những người miền Nam thiện lương. Bốn trái cây ấy dường như là biểu trưng cho quả ngọt khi người ta trọng đức, hành thiện. Tuy nhiên, trái sung trong mâm ngũ quả ấy thì có vị chát, khiến người ta liên tưởng tới một phần dư vị “đắng cay, chua chát” mà con người thường phải cảm thụ nơi Tam giới này.

Có ý kiến trong giới tu luyện cho rằng, ai đó nhìn ra được sự đau khổ của kiếp nhân sinh vô thường thì người đó có ngộ tính tốt. Những người có ngộ tính như thế sẽ sớm nhận ra ý nghĩa của tu luyện và bước vào con đường tu để mong giải thoát.

Tuy nhiên, những câu hỏi như “ta thực sự là ai?”; “ta từ đâu đến?”; “đến thế gian để làm gì?”; “ta sống vì điều gì?” có lẽ suốt hàng nghìn năm qua vẫn luôn là những câu hỏi nhức nhối chưa được thực sự giải khai, tạo ra nút thắt trong tâm của mỗi người, bao gồm cả những người có ngộ tính tốt.

Kể từ khi bài viết “Vì sao có nhân loại” của nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đại sư Lý Hồng Chí, được công bố trên trang Minh Huệ vào đầu năm 2023, những người có duyên đọc bài viết này đã chia sẻ với thời báo Đại Kỷ Nguyên rằng họ đã được cho biết tường tận con người là ai, từ đâu tới, vì sao có Tam giới, vì sao có nhân loại và ý nghĩa sâu sắc hơn về kiếp nhân sinh.

Theo thời báo Đại Kỷ Nguyên, ông Lâu Tân Dược từng tốt nghiệp khoa Triết học Đại học Bắc Kinh, năm 1993 ông đến Mỹ để học chuyên ngành báo chí tại Đại học Columbia. Sau khi tốt nghiệp, ông Lâu làm ký giả. Ông Lâu từng là người Mỹ gốc Á phụ trách việc gây quỹ trong chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Donald Trump. Bên cạnh đó ông cũng là một học giả nghiên cứu chuyên sâu về Kinh Thánh.

Ông Lâu chia sẻ: “Tôi cho rằng đây [bài viết “Vì sao có nhân loại”] là bài viết vô cùng trọng yếu trong lịch sử tư tưởng nhân loại và có ý nghĩa trọng đại đối với nhân loại. Mọi người đều đọc Kinh Thánh, rất nhiều người biết về thần thoại Trung Quốc thời cổ đại, rất nhiều người cũng đọc các kinh thư của Phật giáo. Nhưng theo hiểu biết của tôi thì trong tất cả các kinh điển hay trong văn hiến lịch sử văn hóa, xưa nay chưa hề giải thích rõ ràng như Đại sư Lý Hồng Chí – toàn bộ vũ trụ hình thành như thế nào, kết cấu ra sao, và khởi nguyên của nhân loại là từ đâu… Chúng ta biết về thứ mà trước đây người ta gọi là 18 tầng địa ngục, Thiên thượng có những gì v.v., nhưng ít nhất theo kinh nghiệm của tôi, xưa nay chưa có ai miêu tả thế giới này rõ ràng đến như vậy”.

Bài viết “Vì sao có nhân loại” là bài viết vô cùng trọng yếu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

***

Trở lại với mâm ngũ quả “cầu vừa đủ xài” của người Nam bộ, có thể mỗi gia đình giữa nhiều lựa chọn lại chọn bày mâm quả này trong dịp Tết cũng chỉ nghĩ đơn giản rằng đó là ước muốn của mình trong năm mới và không nghĩ tới điều gì sâu xa hơn.

Có thể thấy rằng, sống trong trạng thái phong bế trí huệ, con người rất khó để truy tới tận cùng mỗi ý niệm tự trong chính bản thân mình. Đạo gia nói, thân thể người là một tiểu vũ trụ, vì thế ý niệm xuất ra ở mỗi người chắc chắn có nguồn gốc và cấu trúc rất phức tạp. Một niệm xuất ra có thể là kết quả của cả một chiều dài sinh mệnh qua bao nhiêu kiếp luân hồi, qua bao nhiêu cuộc giằng co giữa niệm thiện và ác, nên ý niệm đó cũng là kết quả và thước đo phẩm giá cho hành trình sinh mệnh của họ.

Vậy nên, mỗi một quan niệm thuần phác, đơn giản, không tham lam, ganh đua, rất có thể bắt nguồn từ phần minh bạch thẳm sâu trong mỗi người về ý nghĩa nhân sinh, về khát khao vượt thoát khỏi cõi Tam giới ô trọc để trở về với nơi sinh mệnh của mình được sinh ra. Nên có thể nói rằng, mâm ngũ quả “cầu vừa đủ xài” của nhiều người Nam bộ thực sự không sơ sài, nó đơn giản như một ký hiệu nhưng lại chứa đựng triết lý sống với tầng tầng nhận thức về kiếp nhân sinh.

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0914-098-111